Nguyễn T. Long
Thấm thoát cũng đã gần 5 năm từ ngày theo Thầy Nhất Hạnh và tăng đoàn Làng Mai tham dự Trai đàn Chẩn tế ở chuà Vĩnh Nghiêm (16-18/tháng 3/2007). Viết cho đủ là Đại Trai đàn Chẩn tế Bình đẳng Giải oan, được tổ chức ở cả 3 miền.
Nói về Thầy Nhất Hạnh thật là… khó, bắt đầu ngay từ ở cách xưng hô. Đệ tử gọi ông là Sư Ông; có người phong ông là Thiền sư hay trịnh trọng hơn, là Hoà thượng (mặc dù chưa bao giờ có Đại giới đàn nào tấn phong ông lên chức vị này cả !); Tây phương lại thích dùng chữ peace activist qua quá trình vận động hoà bình của ông… và ông thì vẫn bảo “Please Call Me by My True Name” (Xin hãy gọi đúng tên tôi – tên một tập thơ của ông). Riêng tôi thì thích gọi ông bằng Thầy hơn cả (viết hoa để phân biệt với các nam đệ tử của ông, cũng đều là thầy); chữ “thầy” giản đơn nhưng hàm xúc trong “Văn minh Việt Nam” mà Lê văn Siêu đã tả.
***
Trọ gần chuà Pháp Vân, quận Tân Bình, tôi có nhiều cơ duyên sinh hoạt với chuà. Hồi thập niên 50, Thầy Nhất Hạnh cũng đã ở đây, lúc đó chung quanh chỉ là những cánh đồng. Sân trước chuà là mộ phần của các tác viên trong phong trào Thanh niên Phụng sự Xã hội bị thảm sát hồi năm 1967. 40 năm sau, lịch sử được lập lại, hương linh của những quý vị đó có biết ? Trước khi Thầy Nhất Hạnh về Việt Nam lần đầu (2005), chuà đã được trùng tu lại, xây cất khang trang.
Chỉ còn có mấy ngày nữa Trai đàn Chẩn tế sẽ được khai mạc, tôi vào chuà thấy các thầy bận rộn rối rít: tiếp khách, nhận đơn xin cầu siêu, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho các tăng đoàn, cư sĩ từ xa về… Hỏi thầy tri sự đang ngồi trước máy vi tính, có gì cần giúp một tay, thầy khựng lại, suy nghĩ, rồi rút ra trong ngăn kéo một xấp giấy dầy, đưa cho tôi và bảo đánh vào máy vi tính theo mẫu có sẵn những đơn xin cầu siêu này, bỏ vào USB rồi mang lại cho thầy. Làm xong xấp này, tới lấy nữa. Tôi có 2 ngày, một đêm.
Mẫu đơn được in sẵn của Làng Mai ít người biết và nhận được (chuyện cũng dễ hiểu thôi bởi vì ngay cả chuyến đi của phái đoàn Làng Mai về nước để cầu siêu độ cho hàng sáu, bảy triệu đồng bào đã tử nạn trong cuộc chiến vừa qua cũng chỉ được báo chí trong nước “loan tin một cách dè dặt” về ngày đến và ngày đi, chứ không nói phái đoàn về Việt Nam để làm gì !). (Xem: Lá Thư Làng Mai, số 31, năm 2008, trang 7)
Phần lớn người ta tự viết tay: tên người xin cầu siêu, địa chỉ, cầu siêu cho ai, liên hệ với người chết và lý do chết. Nhức nhối là ở chỗ này !
Sau công việc này tôi mới hiểu ra, người ta chết nhưng không mất.
Rất nhiều thầy cô và cư sĩ ở những nơi khác cũng làm công việc này như tôi để phụ giúp cho ban tổ chức hoàn tất một khâu chính yếu trong Trai đàn. Sở dĩ phải đánh vào mẫu có sẵn là để đọc lên (tất cả !) trong Trai đàn Chẩn tế, đâu đó 500.000 lá đơn. Chương trình dự tính là như thế, vì lý do kỹ thuật (không có đủ thì giờ ?) hay vì lý do nào khác mà tôi không biết, sớ không được đọc trong suốt 3 ngày tổ chức Trai Đàn ở chuà Vĩnh Nghiêm.
Không phải chỉ có đơn xin cầu siêu của dân miền Nam (trước 75) mà cũng có rất nhiều của những người từ ngoài Bắc, viết thẳng thừng: (người thân) “chết vì Mỹ Ngụy”!
Chiến tranh không phải chỉ trong vòng 20 năm (1955-1975) mà nó trải dài từ khi bắt đầu kháng chiến (1946) khi quân đội Pháp trở lại VN mượn cớ để giải giáp quân Nhật. Cận sử bi đát, oai hùng (hay là bất cứ cái gì đó mà bạn muốn gọi, 300 năm nữa có còn ai nhớ không ?) của VN được trải ra trước mắt tôi: chết vì bị Tây hành quyết, chết thời Bình Xuyên, Bảy Viễn, chết vì làm “lính Ngụy”, chết vì “bom Mỹ”… Bài ca dành cho những xác người của Trịnh công Sơn vang vọng bừng bừng trong trí óc tôi, không có cách nào mà “tắt” nó được ! Có gia đình ở “vùng xôi đậu” ngoài Trung, anh em vừa ở bên này, vừa ở bên kia; tờ đơn xin cầu siêu do người mẹ viết. Tôi không biết bà cảm nhận ra sao (có lời nào diễn tả được chăng ?!) khi lật xác lên, cả 2 phiá, đều là con bà ! Mậu Thân ở Huế được ghi lại với tên 10 người trong họ hàng, lý do chết chỉ vỏn vẹn có 2 chữ: “chôn sống”. Có một người duy nhất còn ghi lại quân số của người chết, liên hệ: “hôn thê”. Trời ơi trời ! 40 năm, sắp hết cả đời người rồi mà vẫn không quên được cái thẻ bài còn giữ ?!
Sau 1975 còn có thêm nhiều lối chết mới, dân miền Nam (Ngụy dân) “khai báo” thận trọng hơn: “chết biển”. Gia đình, bà con, nam nữ, đủ hạng tuổi, đếm không hết. Con đi được thì con nuôi má, còn chìm xuồng thì con nuôi cá ! Đi “nghiã vụ quốc tế” (!), chết ở Kam Pu Chia; khi trước người ta gọi là “đền nợ nước”. Thành ngữ này hình như chỉ có trong tiếng Việt, đất nước “ra ngõ gặp anh hùng” ! Không ít người đã viết rất rõ, tả tỉ mỉ về nơi người thân đã tử trận, chết như thế nào. Một ám ảnh không bao giờ nguôi cho người còn sống: sống với nỗi chết của cha, của anh, của em, của chồng mình… . Còn thần thức của những người chết oan uổng đó đi về đâu ? Tại sao mà dải lụa mỏng, hơn 2m bề ngang và 6m bề dài làm lễ rước vong ở cầu Rạch Chiếc phải 8 người mới kéo từ dưới nước lên được ? Bao nhiêu người lính hai bên, bao nhiêu người vượt biên đã chết ở đấy ? (Xem: Sách đã dẫn ở trên, trang 26).
Có dăm người “chết già” cũng được con cháu chép vào cho đầy đủ. So với bao cái chết tức tưởi, oan khiên, đau thương, kinh hoàng khác (người chết hai lần, thịt da nát tan – TCS) mà tôi đã ghi vào máy, mấy cụ này qủa thật là tốt phước hết chỗ nói !
***
Cả mấy chồng đơn có cảm tưởng dường như đọc hoài không hết, tử khí nặng nề, người chết kể chuyện qua chữ viết ngoằn ngoèo trên giấy vở học trò, nguệch ngoạc đâu đó trên loại giấy gói hàng vàng vọt… và phần lớn những người viết đều là phụ nữ: đó là những người ở lại: bà, mẹ, cô, dì, chị, vợ…; bởi vậy nỗi đau đớn, mất mát này một lần phải được nói ra, không phải chỉ cho người chết, mà cả cho người sống nữa.
Làm người vốn đã khó, làm người Việt Nam còn khó hơn, nhưng làm người đàn bà Việt Nam thì chắc là khó nhất trong 60 năm qua. Bao nhiêu người cha, người chồng, người con… đã chết, họ chết để làm gì ? Cho một nước Việt Nam như bây giờ chăng ? Đó là câu hỏi. Nhức nhối.
Những tờ đơn hoá thành sớ in ra từ máy vi tính được đóng lại từng xấp, gắn vào bàn thờ vong ở tầng dưới chuà Vĩnh Nghiêm trong mấy ngày tổ chức Trai đàn. Tôi đã thấy không biết bao nhiêu người phụ nữ, đứng, ngồi, tần ngần lật từng trang để tìm lá sớ của mình, tên người thân của mình… trong trận nội-chiến-quốc-tế-hoá vừa qua. Ôi đất nước u mê ngàn năm. – TCS
Nhờ ơn chư Tổ, nhờ bi nguyện cứu khổ và bản chất siêu thoát của Sư Ông, nhờ tăng thân Làng Mai và sự trợ giúp của bao bậc trưởng thượng trong nước, nguyện cầu các vong linh đã được bình đẳng giải oan, âm siêu dương thới.
Australia – tháng 12. 2011
Nguyễn T. Long
Nguồn: Tác giả gửi


















