Lũng Cú, điểm đến cực Bắc (*)

Posted: 03/01/2015 in Minh Nguyễn, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Minh Nguyễn

minh_nguyen

Rời thung lũng Sủng Là, tôi lên xe chạy về thị trấn Đồng Văn cho kịp trời tối, để sáng hôm sau thuận đường chạy qua Lũng Cú. Nghe kể, cứ mỗi mùa trăng về là cả khu phố cổ lại chìm đắm trong ánh trăng, trong ánh sáng đèn lồng đỏ hắt ra trước mỗi ngôi nhà. lung linh, huyền ảo như một câu chuyện cổ tích được kể bằng ánh trăng, ánh đèn lồng đỏ treo cao, hắt ra trước mỗi ngôi nhà. Sự thực thế nào chưa thể diễn tả, cho tới khi chứng kiến tận mắt thứ ánh sáng lung linh, huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích; khiến tôi đã phải đánh rơi chùm hoa tam giác mạch, đẹp như vết son môi cô gái bản tặng lên má tôi trong phiên chơ tình Sà Phìn sáng nay.

– Ủa! Tưởng anh cùng nhóm “phượt” quay về thị trấn Yên Minh rồi chứ? Giọng đầy vẻ ngạc nhiên của cô gái hỏi tôi trong khi tôi đang cúi xuống nhặt bó hoa lên:

À! Ra là cô gái có chiếc răng khểnh, suốt sáng hôm nay cứ nhìn tôi cười mỉm, xong quay mặt lẩn tránh.

– Anh ở lại đây để sáng mai đi Lũng Cú. Còn em?

– Em thật sự tò mò muốn biết về cà phê Phố Cổ nơi đây.

– Ghé chưa?

– Em mới nghe hát hò, uống cà phê bệt trên tầng hai về đến đây.

– Có gì đặc biệt?

– Khám phá văn hóa đặc trưng người Tày, người Lô Lô, qua giọng hát mượt mà của các chàng trai cô gái người bản địa.

– Tiếc nhỉ!

– Sao cơ?

Giọng nói nhẹ nhàng phát ra nơi cô, nghe đến cháy lòng kẻ si tình, vậy mà cô gái ngu ngơ làm ra vẻ không biết chi, hay thừa biết nhưng muốn tạo sự ngây thơ cho đời dễ thương? Tôi không thừa dịp đón gió, bẻ măng (dụ):

– Em có muốn đi dạo quanh phố cổ không?

Cô gái cúi xuống vân vê những ngón tay thon dài, bất ngờ hỏi lại tôi:

– Trước hết, anh hứa sáng mai cho Trà theo lên Lũng Cú cùng với nha, em dự định sáng mai đến đó?

Tôi mừng rung tứ chi trước lối giới thiệu gián tiếp tên mình một cách tự nhiên đến vậy. Dĩ nhiên tôi không từ chối vì có thêm bạn đồng hành, nhất là một phụ nữ xinh đẹp ngồi phía sau; không giúp mình nở mày nở mặt với thiên hạ, chí ít cũng dạy mình khôn ra. Tôi liền mạnh miệng nhận lời, bởi trong lòng tôi trước đó cũng thầm mong được chở cô.

– Rất sẳn lòng.

– Hứa rồi nha!

Dưới ánh trăng mười sáu, tôi đưa Trà đi dạo qua vài con đường quanh phố núi. Lúc dừng chân bên chợ Đồng Văn cũ, xem trai Mông trổ tài biểu diễn khèn, cho các cô gái nhảy. Lúc ghé vào gian hàng bán thổ cẩm ngắm nghía trang phục, túi sách, khăn quàng cổ đầy mảu sắc. Lúc ghé lại hàng ngô khoai nướng bên đường, tỏa thơm hương vị quê hương bên cái lạnh đàm thắm nơi thời tiết đang chuyển mùa từ thu sang đông.

– Em lạnh không, hay ta ghé vào quán cháo “ấu tẩu” ăn cho ấm lòng rồi về ngủ sớm để mai có sức mà leo núi?

Không trả lời, Trà bước theo tôi đến quán cháo nằm trên trục đường chính của thị trấn. Thường vào giờ cơm chiều, ít có ai hứng thú đi ăn uống, do đó quán xá không đông khách lắm. Vừa ngồi vào bàn cô gái liền cất tiếng hỏi:

– Cháo ấu tẩu là sao hả anh?

Theo một số người từngđặt chân lên Hà Giang về kể lại: “Cháo ấu tẩu là một trong những món ăn đặc sản, không thử qua một lần đồng nghĩa với chưa biết chút gì về ẩm thực cao nguyên đá”. Thực ra, ấu tẩu là loại củ rừng, thoạt trông giống củ ấu dưới xuôi, vỏ cứng, màu nâu đen, sần sùi, nhiều góc cạnh, có vị nhân nhẩn, khó ăn. Bản thân ấu tẩu rất độc, phải có bí quyết để chế biến, nếu không dễ gây ra chết người. Từ lâu, người Mông dùng ấu tẩu ngâm rượu xoa bóp chân khi bị đau nhức, hoặc chửa cảm gió rất hiệu quả, sau người Kinh dùng tài nghệ chế biến nó thành món giò heo hầm ấu tẩu, hay cháo ấu tẩu, ăn vào khỏe gân cốt, tráng dương, bổ thận . . .

Ăn món cháo nóng hổi trong tiết trời lạnh lẽo từ bên ngoài xong, tôi đưa Trà về nơi đã xuất phát, hẹn sớm mai đón đi ăn sáng; đồng thời mua ít bánh kẹo mang theo phân phát cho bọn trẻ con khi gặp chúng đứng vẩy tay trên đường đi.

Sáng. Tạm biệt Phố cổ, tôi chở Trà chạy đến ngã ba Khèn, rẽ phải đi Lũng Cú thay vì đi thẳng lên Sủng Là. Đoạn đường dài chừng ba mươi cây số với cua tay áo nối cua tay áo uốn lượn hình chữ m, thường thấy trên một số ảnh đăng ở báo chí; bù lại phong cảnh dọc hai bên đường đẹp đến mê hoặc lòng người. Thích quá, Trà năn nỉ tôi dừng xe bên đường để cho cô bước xuống chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ của núi đá tai mèo lẫn trong cánh đồng tam giác mạch phơn phớt hồng, ẩn hiện dưới làn mây trắng bềnh bồng; của những đồi núi chập chùng vút cao ngọn bên thung lũng sâu hun hút dưới chân; của những thửa ruộng xếp hình bậc thang dẩn lên tận trời.

– Có phải cột cờ Lũng Cú kia không anh? Trà chỉ tay về ngọn núi trước mặt hỏi.

– Đúng rồi.

– Tên Lũng Cú có nghĩa là gì, anh biết không ?

Nhờ đọc lóm được một số tài liệu liên quan tới Lũng Cú, trước khi đi đặt chân đi Hà Giang, tôi trả lời Trà giỏi không thua vẹt:

– Lũng Cú là xã thuộc đỉnh cao Đồng Văn, có độ cao từ 1600 – 1800 mét so với mực nước biển, là điểm cực bắc ở nước ta (*). Xã gồm ba phần tư diện tích đá tai mèo, phần còn lại là bản làng người Mông, Lô Lô, Giáy, sống chủ yếu bằng việc làm rẫy, trồng lúa trên các ruộng bậc thang; riêng người Lô Lô còn duy trì được nghề truyền thống: se sợi lanh, dệt vải. Về nghĩa của từ Lũng Cú có thể giải thích bằng nhiều cách. Theo người Mông thì Lũng Cú là “lũng trồng ngô”, vì từ xưa đến giờ cả cánh đông Thèn Pà ( lớn nhất ở đây) đều trồng ngô. Cũng có quan điểm cho Lũng Cú là do cách đọc lệch âm của từ Long Cư, nơi ở của rồng, bởi theo truyền thuyết: “Ngày xưa, có một con rồng thấy cảnh quan nơi đây khá đẹp nên thường đến trú ngụ trên ngọn núi( Long Cư) và trước khi về trời đã để lại đôi mắt là 2 hồ nước thiêng trong vắt (long nhãn) cho người dân trong bản sử dụng”. Còn hiểu theo dân gian thì, đây là tên thủ lĩnh người Lô Lô từng có công khẩn hoang, giữ gìn bờ cỏi, phát triển vùng đất này. Riêng các nhà khoa học thì khẳng định từ ngữ này bắt đầu từ chữ Long Cổ (trống rồng), vì vào thời Tây Sơn sau khi đại thắng quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt tại miền biên ải này một chiếc trống đồng rất to. Cứ mỗi canh, người ta lại gióng lên ba hồi trống, thông tin báo hiệu chuyện lành-dữ cho mọi người biết. Bằng chứng, người Lô Lô ở Lũng Cú ngày nay sử dụng thành thạo trống đồng thuộc dòng Đông Sơ, do chính họ làm ra và được xem là bảo vật thiêng liêng. Do sự linh thiêng ấy nên chỉ các bậc cao niên, có uy tín đạo đức mới được phép bảo vệ và không được phép đưa trống sang sông; nếu trái lệnh, thuồng luồng sẽ xuất hiện và lấy mất. Để bảo vệ, người ta chôn trống xuống đất và dùng than của cây Pơ-mu vây bọc xung quanh chống ẩm; khi cần lây lên sử dụng, người Lo Lô phải làm lễ cúng bái với bài bản riêng, kèm theo đôi gà trống cùng với rượu ngô.

Đi trọn cung đường núi, tôi đã có mặt tại bãi đậu xe dưới chân cột cờ Lũng Cú, ngồi uống vài chén nước ở quán giải khát cạnh nhà nghỉ Cực Bắc. Hỏi thăm vài người vừa lên cột cờ đi trở xuống, mới hay ngoài cổng chính mà tôi vừa chạy qua, còn có con đường nhựa có thể chạy xe lên tới điểm bán vé trên lưng chừng núi.

– Em thấy đói chưa? Tôi hỏi Trà khi nhìn qua phía đối diện thấy có cửa hàng ăn uống.

– Chưa đâu anh, mình còn phải leo lên cột cờ đã, sau đó ăn uống cũng chưa muộn.

Hội ý xong, tôi cùng Trà nối đuôi nhau vượt qua chiếc cổng sắt khép hờ, đặt chân lên những bậc thang bằng đá granit. Đề cho an toàn, tôi nhắc cô đặt tay lên một trong 2 tay vịn bằng thép không rỉ đặt ở 2 bên, giúp người leo lên cột cờ đở phải mỏi chân và không sợ bị ngả.

Leo đến lưng chừng núi, tôi đứng đối diện với khoảng sân rộng, ở đó dùng làm bãi đậu xe các loai, điểm bán vé, nhà trưng bày sản phẩm văn hóa các dân tộc Hà Giang, cúng với con đường trải nhựa mà lúc ở dưới chân núi tôi nghe nhiều người nói có thể chạy xe lên đến Séo Lũng này.

Mua vé. Bọn tôi tiếp tục leo những bậc thang uốn lượn nơi núi Rồng ( Long Sơn), với cảm giác bước nhẹ nhàng trên dải lụa vắt từ đỉnh núi xuống. Ở đó, một bên là vách núi với những vườn đào, vườn lê xanh lá, cùng âm thanh tiếng đàn giong hát vang xa từ những chiếc loa được giấu trong góc khuất, một bên là nhà cửa, vườn tược, đường xá, ruộng lúa chia ô hình bàn cờ, sâu hun hút dướ chân.

Vượt qua 839 bậc thang, tôi và Trà đứng cạnh tấm bia chủ quyền Quốc Gia hình chữ nhật đặt theo chiều đứng. Trên cùng khắc Quốc Huy, tiếp đến là những dòng chữ diễn giải bằng tiếng Việt, tiếng Anh xếp thứ tự từ trên xuống. Theo lính Biên Phòng làm nhiệm vụ bảo vệ nơi đây: “ Cột cờ Lũng Cú được trùng tu nâng cấp nhiều lần. Lần đầu được xây dựng vào thời Lý Thường Kiệt với cán cờ bằng cây sa mộc cao 13 mét; lần thứ hai là vào thời Pháp thuộc, cột cờ hình lục lăng với 6 mặt là các phù điêu trống đồng Đông Sơn; và gần đây nhất, sau 196 ngày thi công, cột cờ Lũng Cú mới có chiều cao 33,15 mét, cán cờ bằng thép không rỉ cùng với lá cờ 6×9 tượng trưng cho 54 dân tộc, được đưa vào sử dụng ngày 25 tháng 09 năm 2010”.

Thoạt nhìn, hình ảnh cột cờ Lũng Cú có ít nhiều điểm tương đồng với cột cờ Hà Nội, nhưng lại có 8 mặt phù điêu mô phỏng hoa văn mặt trống đồng Đông Sơn cùng những họa tiết minh họa các giai đoạn lịch sử đất nước qua từng thời kỳ. Bao gồm con người, phong tục tập quán các dân tộc Hà Giang; ngoài ra, còn có một chiếc cửa to nằm ở phía sau của một trong 8 phù điêu, mở rộng cho mọi người lên xuống tham quan cột cờ.

Theo chân đám đông người, tôi cùng Trà bước lên những bậc thang xoáy trôn ốc, đi dần lên bên trên. Vừa leo được vài bậc thang, đã nghe tiếng nhiều cô gái từ trên đi xuông, nói với nhau về nỗi sợ hải so với độ cao. Nghe thế, Trà có vẻ chùn chân không dám bước đi lên tiếp. Tội nghiệp, bên thứ ánh sáng mờ ảo rọi từ bên ngoài qua những chiếc cửa kính lọt vào bên trong, tôi nhìn thấy nét mặt tái nhợt của cô nom thật đáng thương. Tôi cố dỗ dành cô bằng cách hướng dẩn việc chế ngự chứng sợ độ cao mà nhà khoa học thường hay khuyên bảo mọi người:

– Không sao đâu em, nếu sợ, em cứ thử nhìn thẳng mắt về phía trước, tránh nhìn xuống dưới chân, chắc sẽ ổn thôi.

– Em sợ lắm, chắc anh lên đấy một mình đi.

Để trấn an và giúp Trà lấy lại sự tự tin, tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn của cô, dẩn đi tiếp lên 140 bậc thang, có mặt đứng ở khoảng sân dùng làm nơi thượng cờ. May sao, trên đỉnh cao hôm nay không nhiều gió, lá cờ tổ quốc thay vì tung bay, lại đứng im cho mọi người có dịp khoát lên người chụp ảnh. Tận dụng cơ hội ấy, Trà dạn dĩ choàng tay quanh cổ tôi, nhờ ai đó chụp cho vài bức ảnh kỷ niệm. Chao ôi! Vô tình mùi hương con gái thoáng qua mũi đã để lai trong tôi bao cảm xúc dâng trào, bắt.tôi giấu đi nỗi vui sướng dâng trào, tận hưởng phút giây thăng hoa bên cuộc sống,

Quên hết sợ hãi, Trà bước tới đứng vịn tay lên lan can, hướng mắt nhìn ngắm hết bầu trời bao la, lại quay nhìn xuống thôn bản người Lô Lô bên dưới. Ở đó, nổi lên hai hồ nước được ví như 2 con mắt rồng, cùng những ngôi nhà trình tường nằm sau hàng rào đá, những thửa ruộng bậc thang trơ gốc rạ sau vụ mùa thu hoạch, dòng sông Nho Quế mảnh mai như một sợi chỉ nằm sâu dưới thung lũng. . .

– Sao rồi em? Tôi bước tới đứng bên cô hỏi.

Trà mừng rỡ nói:

– May nhờ có anh nên em mới được tận mắt chứng kiến vẻ đẹp hoang sơ nơi Lủng Cú này.

– Trời cũng đã trưa, mình mau trở xuống dưới ăn uống, rồi chạy về Yên Minh cho kịp buổi chiều nha em.

Không phản đối, Trà theo tôi trở xuống núi, kết thúc chuyến thăm cột cờ Lủng Cú. Trên đường đi tôi nghe nhiều người bảo nhau ghé vào cửa hàng bán hàng lưu niệm bên dưới chân núi, mua một ít chè San, mật ong bạc hà, mang về làm quà cho gia đình.

Thì ra, Hà Giang không chỉ nổi tiếng là quê hương của đào phai, của hoa lê, của tam giác mạch; mà còn được biết đến với nhiều món ăn đặc sản, hấp dẩn du khách như: trà San, rượu mật ong, mật ong bạc hà, thắng cố, cháo ấu tẩu, thịt trâu gác bếp . . .

Minh Nguyễn

(*) Nhiều tài liệu ghi điểm cực Bắc cách cột cờ Lũng Cú 2 KM nữa.

Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.