Nguyễn Lương Vỵ
Thi sĩ Nguyễn Tôn Nhan (1948-2011)
Khuya ở ngã năm Gò Vấp
Nhớ thi sỹ Nguyễn Tôn Nhan.
Vẫn ánh đèn hột vịt ngã Năm
Vẫn thân quen nhưng vắng trăng rằm
Vẫn cô chủ giọng cười tươi nắng
Vẫn ghế bàn ọp ẹp lặng câm
Anh Hai đi đâu lâu quá vậy?
Còn em? Vẫn tạm sống qua ngày
Thằng lớn nay đã lên lớp bảy
Con Út mới hơn bốn tuổi Tây
Vẫn tất tả khuya, buồn hơn trước
Vẫn bếp than hồng, soong nước sôi
Vẫn khô mực nướng, khô cá sặc
Vẫn đầu hẻm nhỏ, thưa bóng người
Anh Hai về chơi được lâu không?
Rượu cạn ly cho ấm cõi lòng
Ba bốn tuần rồi đi em ạ
Đèn hắt hiu còn ta ngó mông
Vẫn một mình ngồi đây nhớ bạn
Vẫn tưởng như Nhan ngồi kề bên
Vẫn giọng nói vang xa và ấm
Vẫn niềm khuya thơ ngấm trời quen
Anh Hai làm một ly nữa nghe?
Bụi hay sương hay mắt cay nhòe
Hay Nhan đã về trong gió thoảng
Nghiêng ly bóng ngã trên vỉa hè…
01.2013, hiệu đính 11.2014
Ghi chú: Thi sỹ Nguyễn Tôn Nhan (1948 – 01.2011). Quê quán Hải Dương, định cư tại Sài Gòn từ 1954 cho đến ngày từ trần. Ông là nhà Hán học uyên bác, thi sỹ kỳ tài. Tác phẩm Thơ: Thánh Ca (1967), Lục Bát Ba Câu (1995) và rất nhiều Thơ chưa xuất bản.
Blue đen và huyết âm
Rất chậm. Rất xanh. Rất mộng
Khuya em. Trăng núi. Mùa ta
Tượng số nhạc trời ngất động
Năm âm rợp bóng người-ma
Chớm đông lắng lòng chín vía
Bờm âm hí lộng ngàn bông
Rất đậm. Rất tươi. Rất lạ
Blue. Ướt lá. Băng đồng
Blue. Khuya em. Buốt quá
Truông xanh lục biếc tê ngời
Huyết âm xưa vang hồn đá
Mùa ta thức nhớ quen rồi!…
11.2014
Dấu hỏi giữa hư không
Tưởng niệm 70 năm, ngày giỗ thi sỹ Phạm Hầu
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai? [1]
Dấu hỏi giữa hư không vắng lặng
Vẫn vọng âm trên Vọng Hải Đài
Tháng Giêng long lanh trên lá cỏ
Điện Bàn kêu sương trong lũy tre
Dấu hỏi hẳn đã chìm trong mộ
Hay vẫn lang thang trên đường về?
Ngập ngừng ai vẫn qua êm nhẹ
Một cái nhìn hương, chỉ thế thôi! [2]
Dấu hỏi xa lòng kia giữ nhé
Mộng Cù Lao là mộng không lời
Hăm bốn xuân xanh trời khép mắt
Đất sầu thương tiếc giọng quyên xanh
Dấu hỏi giữa hư không thầm nhắc
Xa lòng giấc mộng vẫn cầm canh…
01.2014, hiệu đính 11.2014
Ghi chú: Thi sỹ Phạm Hầu, tên khai sinh là Phạm Hữu Hầu (02.03.1920 – 03.01.1944). Quê quán: Gò Nổi, Điện Bàn, Quảng Nam. Ông là thi sỹ tài hoa, vắn số. Thi phẩm của Phạm Hầu được nhà văn Hoàng Minh Nhân sưu tầm chỉ có 26 bài, nhưng hồn thơ độc sáng, u uẩn, cô liêu một cõi riêng.
[1] Thơ Phạm Hầu (trích trong bài thơ Vọng Hải Đài).
[2] Thơ Phạm Hầu (trích trong bài thơ Mộng Cù Lao).
Nguyễn Lương Vỵ
Nguồn: Tác giả gửi