Trích văn hay đạo văn

Posted: 27/01/2015 in Nguyễn Vy Khanh, Tùy Bút / Tản Văn / Ký Sự

Nguyễn Vy Khanh

nguyen_vy_khanh-nguyen_quoc_tuan
Nguyễn Vy Khanh qua nét vẽ Nguyễn Quốc Tuấn

Từ khi chúng tôi viết biên khảo ở hải ngoại (từ đầu thập niên 1980), nhất là từ năm 1995 với nhiều nghiên cứu về văn-học, một số công trình của chúng tôi đã được số người ngoài và trong nước tham khảo và trích dẫn với chú thích đúng cách khoa học và lương tâm nghề nghiệp, nhưng cũng có nhiều ý tưởng, khám phá, những đoạn bài viết của chúng tôi đã bị một số người sử-dụng lại nhưng không ghi xuất xứ hoặc rất mập mờ, đánh lạc hướng người đọc. Soạn biên khảo khác với viết lý thuyết chính trị, gần như lúc nào cũng phải tham khảo văn bản và không phải là công việc của 1, 2 giờ đánh vào máy điện toán với phương tiện Internet, cắt/dán, v.v.

Trước 1975, ở miền Nam, đã có những nhà báo và biên-khảo lên tiếng mỗi khi có những trường hợp đạo văn. Trên tạp-chí Văn, Thư Trung tức Trần Phong Giao đã hơn một lần nhặt được những hạt sạn, như thơ THDV,… Trong số scandale lớn có thể nói đến trường hợp cuốn Việt-Nam Văn Học Toàn Thư 1 của Hoàng Trọng Miên đã chép lại nhiều phần của Việt-Nam Cổ Văn-Học Sử của Nguyễn Đổng Chi (Nhà văn Thế Phong dưới bút hiệu Đường Bá Bổn đã đưa ra ánh sáng trên tờ Văn Hóa A Châu số 18, nhà văn Nguyễn Mạnh Côn bênh vực Hoàng Trọng Miên đã bị mất chức chủ bút tờ Văn Hữu)…

Trên tờ Tin Sách số 4 tháng 10-1962, Nhật Anh đã đặt “vấn-đề chính trực và liêm sĩ của nhà văn” khi nêu thắc mắc soạn giả Phạm Văn Sơn của cuốn Việt Sử Toàn Thư (tác giả xuất Bản, 1960) đã chép lại nguyên chương VII của cuốn Việt-Nam Văn-Hóa Sử Cương của Đào Duy Anh mà không ghi xuất xứ cũng không in nghiêng hoặc để trong ngoặc kép. Theo đó, theo lệ thường trích văn “không được phép trích quá 10 hàng, trừ ra những sách nghiên cứu, về học thuyết của một tư tưởng gia nào” và “không được phép trích cả chương sách” (tr. 15) cũng như “trích văn của người khác mà không ghi rõ xuất xứ” (tr. 16). Ông Phạm Văn Sơn đã phải trả lời (Tin Sách, 2-1963) là ông không ghi xuất xứ vì cuốn đó coi như là sách giáo khoa, lấy lại từ bộ sách Việt Sử Tân Thư 8 quyển; nhưng dù vậy tính mập mờ vẫn còn đó.

Về phần chúng tôi, việc người khác trích văn, đạo văn, cóp ý, cóp nguồn thư mục, v.v. cũng đã xảy ra, ở ngoài và trong nước. Ngoài nước, văn-học và báo chí theo thời gian đã bị lão hóa về nội dung, sáng tác, v.v. và cả trong hiện tượng có những “nhà báo”, “học giả” từ trên trời rớt xuống; có người về già thấy chưa có “sự nghiệp văn chương” bèn làm thơ (còn ký là BS, TS, GS,… nhưng vè vẫn không thể là thơ), bèn viết báo, hồi ký, … và làm … “học giả” rồi lập, đàn, nhóm để ra mắt sách (nhờ nhau điểm sách, phê bình kiểu mặc áo thụng bái nhau, nhưng áo lúc này vải … dổm nhiều) và chính thức bước vào … làng văn! Vài năm gần đây tôi đã thu thập những trường hợp có liên hệ đến các công trình biên khảo của mình, ngoài cũng như trong nước, và hôm nay tôi trình bày ở đây một trong những trường hợp đó.

Trên nhật báo Người Việt (Westminster CA) ngày 16-9-2014 (sau đăng lại trên diendantheky và trang web của ông ta), có một người khá nổi tiếng ở nơi đấy, đã viết 1 bài về Võ Phiến và bài đã trích 3 đoạn văn của chúng tôi, có ghi tên Nguyễn Vy Khanh (lần đầu ngay trong phần mở bài đã đánh lạc hướng người đọc khi cố tình ghi nguồn là “(Wikipedia – Mở)” trong khi đó là nguyên văn đoạn 2 trong bài của tôi viết về Võ Phiến đã đăng trên tạp chí Văn Học và sau này in thành sách năm 2004. Lần trích 2 hơi … đểu “Vẫn theo nhận định của Nguyễn Vy Khanh thì phải” –  đã trích từ sách hay Internet mà còn “thì phải”! Lần 3 để “minh họa” cho ý tưởng thật ra chỉ là lập lại người khác, y ghi “Nguyễn Vy Khanh cũng ghi nhận như sau” – Nguyễn Vy Khanh viết bài “Võ Phiến Những Năm 1960” ngày 9-9-1998, còn ông ta viết năm 2014 thì ai “cũng” đây? Và trong phần Chú thích thì ông ta để trống nguồn thư tịch ((1) (3) Nđd.).

Còn nội dung của bài báo của người này không cho thấy y khám phá ra gì mới, khác. Dĩ nhiên là bài báo có nhuận bút – và ông ta đặc biệt nhưng không phải là người duy nhất “biên khảo” như vậy!

Xin mời bạn đọc:

Hành Trình Văn Chương Võ Phiến
Du Tử Lê

Võ Phiến là một trong những nhà văn hàng đầu của 20 năm VHNT miền Nam, giai đoạn 1954-1975. Giai đoạn sự nghiệp văn chương của ông đạt tới đỉnh cao nhất là thập niên 1960s, khi ông di chuyển từ miền Trung vào Saigon. Đó là thời gian ông xuất bản những tác phẩm được nhiều người biết tới, như: “Đêm Xuân Trăng Sáng”, “Giã Từ”, “Thương Hoài Ngàn Năm”, hay “Thư Nhà’, “Đàn ông”, “Ảo ảnh”, Phù Thế v.v…

Trong một tiểu luận của nhà phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh, ở hải ngoại, trước khi đề cập tới văn nghiệp của nhà văn Võ Phiến, thuộc thập niên 1960s, họ Nguyễn viết:

“…Miền nam vĩ tuyến thứ 17 sau 1954 vốn quen với hai luồng văn học từ hai thủ đô văn nghệ, một mới, Sài Gòn và một cũ, Hà Nội, đã ngạc nhiên đón nhận một nhà văn từ miền Trung là miền đến lúc ấy vẫn nổi tiếng về thơ hơn là văn: nhà văn Võ Phiến gây chú ý ngay từ những tập truyện ngắn đầu tay xuất bản ở Qui Nhơn vào đầu nửa cuối thập niên 1950: Chữ Tình xuất bản năm 1956 và Người Tù một năm sau đó. Lúc đó ông cộng tác thường xuyên với tạp chí văn chương Mùa Lúa Mới ở Huế và gửi bài đăng trên Bách Khoa và Sáng Tạo ở Sài Gòn. Hai tập truyện ngắn Chữ Tình và Người Tù ra đời hợp không khí chính trị những năm đầu của nền đệ nhất cộng hòa, về văn chương không có mới lạ, có thể nói bình thường, hơi quê, văn theo tiêu chuẩn chung, chưa đặc sắc…” (Wikipedia – Mở).

Vẫn theo nhận định của Nguyễn Vy Khanh thì phải:

“…Đến Đêm Xuân Trăng Sáng, xuất bản năm 1961, tập truyện ngắn đồ sộ về số trang (370 trang, sau tách thành hai cuốn ĐXTS và Về Một Xóm Quê khi tái bản), Võ Phiến được người đọc nhìn như một tác giả điêu luyện, có tính chất “thời đại” với những phân tích tâm hồn và quan sát con người rất tinh tế. Nhân vật của ông thêm sức mạnh và “bản lĩnh”! Đêm Xuân Trăng Sáng gồm 8 truyện ngắn Lẽ Sống, Tâm Hồn, Anh Em, Đêm Xuân Trăng Sáng, Thị Thành, Thác Đổ Sau Nhà, Về Một Xóm Quê, Tuổi Thơ Đã Mất đến với người đọc như một đảm bảo văn tài của tác giả Võ Phiến. Nhìn chung, qua các truyện ngắn này, Võ Phiến chứng tỏ tài quan sát và phân tích tâm lý con người, tận cùng sâu thẳm của con người, tài xây dựng nhân vật vừa điển hình vừa đặc thù. Các nhân vật sống động với bề mặt diện mạo cử chỉ và bề sâu tâm tình xúc tích. Họ là những người dân quê, là những ông phó lý, chủ tịch Liên Việt, những quân nhân hay ông tướng Hùng Sơn hoang đường…” (1)

Đó cũng là thời gian giới văn nghệ sĩ miền Bắc di cư vào Nam, hiện diện một cách lấn lướt, ồn ào ở hầu hết mọi sinh hoạt VHNT: Từ báo chí tới thơ, văn, âm nhạc, phát thanh, hội họa, kịch nghệ…

Do đấy, tôi không biết vì lý do tế nhị, hay bắt nguồn từ một nguyên nhân nào khác, một số nhà văn có ảnh hưởng lớn thời đó, như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Trần Phong Giao…đã đồng tình chọn nhà văn Võ Phiến, như một tài năng văn xuôi, đại diện cho những cây bút miền Trung. Và, nhà văn Bình Nguyên Lộc là ngọn cờ đầu của văn xuôi miền Nam…

Sinh thời, cố thi sĩ Nguyên Sa cũng biểu đồng tình với chọn lựa vừa kể, khi ông nhấn mạnh, đó là chọn lựa mang tính “quần bình ba miền đất nước”. Hoặc dí dỏm hơn khi ông dùng cụm từ “nhu cầu cân bằng sinh thái”.

Theo tôi thì, nhà văn Võ Phiến không phải là người tạo được văn phong (style) riêng, mới như Mai Thảo. Khi Mai Thảo là người khởi đầu cách biến những động tự, tính tự, trạng tự, giới tự, thậm chí liên tự… thành danh từ, làm chủ từ cho một mệnh đề.

Thí dụ, ngay từ truyện ngắn đầu tay, tựa đề “Đêm giã từ Hà Nội”, viết năm 1954, phổ biến năm 1955, nhà văn Mai Thảo đã ra khỏi truyện ông bằng câu:

“…Bóng Phượng, bóng Thu nhạt nhòa dần. Rồi mất hẳn.”

Về phương diện ngữ pháp, “rồi” là trạng tự. Trước ông, chưa một nhà văn nào dùng trạng tự làm chủ từ cho một câu văn.

Cũng ở truyện ngắn vừa kể, Mai Thảo đã vào truyện bằng hai mệnh đề độc lập mang tính ẩn dụ khá dữ dội là:

“Phượng nhìn xuống vực thẳm.
“Hà Nội dưới ấy.” (2)

Lại nữa, với trích đoạn sau đây từ truyện ngắn “Những tấm hình của chị Thời”, Mai Thảo còn đi xa hơn trong nỗ lực tạo một văn phong riêng cho mình, khi câu văn của ông, đôi khi chỉ có vài ba chữ… Văn phong này trước ông, người ta chỉ thấy trong thi ca chứ ít thấy xuất hiện trong văn xuôi:

“Và bây giờ là một đường phố xa lạ, chẳng có bướm vàng chẳng có bạn cũ. Những chùm hoa phượng đỏ chói của tuổi nhỏ bông hoa đã nở. Đã rụng. Một năm học mới bắt đầu. Một năm học phường phố đầy vẻ xa lạ thù nghịch. Thù nghịch ngay từ căn phố Nhị vừa đặt chân tới. Thù nghịch ngay từ ngôi nhà ở đó những ngày trọ học của Nhị đã bắt đầu với Nhị bằng cái cảm giác rùng rợn của một kiếp lưu đày.”

Cách viết của Mai Thảo, sau đấy được nhiều người áp dụng. Hiện nay, nó đã trở thành bình thường, quen thuộc đến độ không còn ai bận tâm, thắc mắc về người khởi xướng!

Theo tôi, nhà văn Võ Phiến cũng không tiêu biểu như Bình Nguyên Lộc, người thủy chung chủ tâm chọn ăn ở ngôn ngữ Nam bộ.

Võ Phiến không cho thấy chủ tâm văn chương hóa những ngôn ngữ đặc thù của miền Trung. Chưa kể, khi di chuyển vào Saigon, ngôn ngữ địa phương ít ỏi, trong văn chương Võ Phiến đã rơi, rụng, dần

Vẫn theo tôi, tác giả “Thác đổ sau hè” cũng không bận tâm nhiều về những vấn đề mang tính triết lý, như sự phi lý của kiếp người hoặc, những vấn nạn thuộc về siêu hình, như vấn đề phải chăng thượng đế đã chết? Ông cũng không dễ dãi buông mình trôi theo những trào lưu văn chương, có tính cách thời thượng như hiện sinh, hay phong trào văn chương mới…

Võ Phiến là nhà văn chọn đi tiếp con đường của văn chương tiền chiến, với căn bản là sự ghi nhận những dữ kiện xã hội nổi bật, và nhất là khai thác tâm lý nhân vật…

Tuy nhiên, với biệt tài quan sát, phân tích tới chi ly, tỉ mỉ mọi sự kiện, kể cả những sự kiện nhỏ bé nhất, một khi lọt đã vào tầm nhắm của Võ Phiến, thì chúng được ông cho chúng một chiếc áo khác. Một linh hồn khác… Phải chăng vì thế, ông đã được phong tặng danh hiệu: Người có khả năng “chẻ sợi tóc làm tư”.

Về điểm này, nhà văn Nguyễn Vy Khanh, khi viết về giai đoạn mà, sự nghiệp văn chương của Võ Phiến nở rộ nhất, ở thập niên 1960s, cũng ghi nhận như sau:

“…Võ Phiến, một cây viết mới và ‘khác’, ông chẻ sợi tóc làm tư, viết những chuyện như ‘cái chạy loanh quanh của một con kiến vàng trên cái tay đầy những sợi lông măng của nàng’, hay truyện một anh cán bộ bị ‘phục viên’ vì sốt rét ngã nước. Nằm một chỗ tình cờ anh nhìn thấy một hạt thóc vương vãi đã nẩy mầm và cái lá non nhỏ đã nhú đang bay phe phẩy. Trong truyện Băn Khoăn, con người kháng chiến cũ ngồi ôn lại ‘quãng đời đầy buồn thảm, gớm ghiếc’ vừa qua đó của mình. Nơi kháng chiến, những cán bộ ở rừng như Lung (MĐCN) đạo đức khả nghi, đời sống sinh lý quá phóng túng, bất thường. Thác Đổ Sau Nhà là một kết cuộc tự nhiên của Hạnh bỏ chồng vì anh đã bị vong thân chỉ nghĩ đến lợi dụng! Đêm Xuân Trăng Sáng là một tập truyện ngắn đúng nghĩa, xúc tích về bề dày, về nghệ thuật viết của tác giả. Cái tinh tế từ ba tập truyện đã xuất bản nay thành cay chua tàn nhẫn hơn…” (3)

________

Chú thích:

(1) (3) Nđd.

(2) Nhà văn Trần Thanh Hiệp (hiện cư ngụ tại Pháp) hơn một lần kể rằng, truyện ngắn đầu tay “Đêm gĩa từ Hà Nội” của Mai Thảo gửi cho báo Người Việt, Saigon, 1955  (…)

Nguyễn Vy Khanh
Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.