Ông Bà Bùi Hữu Nghĩa

Posted: 12/09/2016 in Biên Khảo / Phê Bình, Nguyễn Minh Thanh
Thẻ:

Nguyễn Minh Thanh

– Tưởng niệm công đức tiền nhân.
– Tưởng kính quí Thầy Cô xưa…
– Tưởng nhớ quí bạn cũ, cựu học sinh Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc.

mo_va_den_tho_bui_huu_nghia
Mộ và đền thờ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa

Lược sử Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa (1807-1872)

Ông còn có tên Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi, người quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ. Cha là Bùi Hữu Vị, có chỗ ghi là Bùi Hữu Đá, làm nghề dân chài. Thuở nhỏ, Bùi Hữu Nghĩa rất thông minh theo học chữ Nho, nhưng nhà nghèo nghỉ học. May nhờ người nói giúp, lên Biên Hoà ở nhà ông Nguyễn Văn Lý là phú gia trong làng, đi học với thầy đồ Hoành và rồi được ông Lý gả con cho.

Năm 1835, đời vua Minh Mạng, Bùi Hữu Nghĩa thi đỗ Giải Nguyên (Thủ khoa) kỳ thi Hương ở Gia Định nên thường gọi là Thủ khoa Nghĩa. Lúc ấy Ông 28 tuổi. Năm sau Bùi Hữu Nghĩa ra Huế thi Hội, nhưng rớt. Tuy nhiên Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa vẫn được vua Minh Mạng cho tập sự ở Bộ Lễ và cử đi sứ nước Xiêm, khi về được bổ nhiệm làm Tri huyện Phước Chánh tỉnh Biên Hoà. Với lòng thương dân, dạ ngay thẳng, không bợ đỡ cấp trên nên về sau bị đổi đến làm Tri huyện Trà Vang tức Trà Vinh tỉnh Vỉnh Long. Vẫn tính tình cương trực như tự thuở nào.

Vụ Án Láng Thé

Láng Thé, con rạch thiên nhiên thuộc huyện Trà Vang với nguồn lợi là thủy sản: cá, tôm… được vua Gia Long miễn thuế cho dân Khmer. Do việc người Khmer đã giúp Ông khi chưa làm vua và bị quân Tây Sơn truy đuổi.

Năm 1848, thấy lợi, bọn người Hoa lo lót với quan tri phủ giành quyền khai thác. Ức lòng, người Khmer xin gặp Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa thưa trình. Ông Bùi Hữu Nghĩa phán xử: “Việc tha thuế thủy lợi là ơn huệ của vua Thế Tổ (Gia Long) ban cho dân Thổ (Khmer), nay ai nhỏ hơn vua Thế Tổ mà dám đứng bán rạch ấy, thì có chém đầu nó cũng không sao!”

Dựa vào câu nói của quan huyện Bùi Hữu Nghĩa, dân Khmer bèn kéo nhau đến xóm nhà người Hoa tranh cãi và xô xát gây án mạng. Phía Người Hoa có 8 người chết. Vì tư thù bởi có lần Tri huyện Bùi Hữu Nghĩa đã cho đánh đòn em vợ của quan Bố Chánh Vĩnh Long với tội xấc láo nên nhân việc này, quan trên cho bắt người Khmer gây án mạng và Ông Bùi Hữu Nghĩa giải về Gia Định. Đồng thời, dâng Sớ về triều đình Huế tâu rằng: “Bùi Hữu Nghĩa kích động dân Khmer làm loạn và lạm phép giết người.”

Biết được tin dữ, bà Nguyễn Thị Tồn, vợ Ông, đã vội vã ra Huế kêu oan cho chồng. Nhờ vậy, Ông Bùi Hữu Nghĩa được vua Tự Đức tha cho tội chết song phải sung quân để đoái công chuộc tội. Nơi Ông bị sung quân là đồn Vĩnh Thông thuộc tỉnh Châu Đốc. Đầu tiên với chức Thủ Ngự, trọng trách là dẹp những cuộc nổi loạn của dân Miên. Ông rất gian khổ trong công việc nầy. Với chiến công, dần dần Ông được thăng chức Phó Quản Cơ, trấn nhậm vùng Hà Âm. Trước cảnh thê lương xương cốt nhiều quá do chiến tranh với lân bang Xiêm, Lào, Miên… Ông có bài thơ:

Kinh Quá Hà Âm

Mù mịt mây đen kéo tối dầm,
Đau lòng thuở nọ chốn Hà Âm,
Đống xương vô định sương phau trắng,
Vũng máu phi thường cỏ nhuộm thâm,
Gió trốt dật dờ nơi chiến lũy,
Đèn trời leo lét dặm u lâm,
Nghĩ thương con tạo sao dời đổi,
Dắng dỏi trên đường tiếng dế ngâm.

Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa lập gia đình với Bà Nguyễn Thị Tồn khoảng năm 1839, Ông Bà có 3 người con: Bùi-Thị-Xiêm, Bùi-Hữu-Vàng và Bùi-Hữu-Tú.

Sau thời gian để tang vợ đầu là Bà Nguyễn Thị Tồn; Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa tục huyền với Bà Lưu Thị Hoán khi còn ở Vĩnh Thông và có ba người con: Bùi-Hữu-Khánh, Bùi-Hữu-Sanh và Bùi-Hữu-Út

Năm 1862, giặc Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa xin từ quan, về quê dạy học, hốt thuốc chữa bịnh, làm thơ, viết tuồng truyện… và giao du các ông Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, liên lạc với phong trào Văn Thân… mưu sự cứu nước. Kim Thạch Kỳ Duyên tuồng truyện là kiệt tác của Ông.

Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa mất năm 1872, thọ 65 tuổi.

Lược Truyện Bà Nguyễn Thị Tồn, hiền thê Ông Bùi Hữu Nghĩa

Bà người Biên Hoà, trưởng nữ của ông Nguyễn Văn Lý, là một phụ nữ nhan sắc và đảm đang. Nghe tin dữ về chồng mình về vụ án Láng Thé, Bà Nguyễn Thị Tồn liền cải dạng nam trang, quá giang ghe Bầu, vượt sóng gió ra Huế kêu oan cho chồng. Ra Huế, Bà tìm tới Ông Phan Thanh Giản đang làm Thượng Thư Bộ Lại, kể hết những ẩn khuất của sự tình… Ông Phan Thanh Giản viết cho Bà tờ Sớ trình bày mọi việc và khuyên là hãy đến ty Tam Pháp kích cổ đăng văn. Tức là đánh trống cho người trên nghe để dâng Sớ kêu oan, và phải thật sớm vào khoảng 3-5 giờ sáng. Bà đã y theo lời khuyên. Nhờ đó, Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa khỏi tử hình, nhưng bị sung quân.

Sau khi minh oan cho chồng năm 1848, tiếng lành đồn xa. Hoàng Thái Hậu Từ Dũ là Mẹ của vua Tự Đức nghe tin có người đàn bà đồng hương xứ Nam Kỳ, phu thê nghĩa trọng, đảm lược đã đơn thân khăn gói dặm trường ra kinh đô kêu oan cho chồng. Rất cảm động, Hoàng Thái Hậu Từ Dũ bèn cho mời Bà Nguyễn Thị Tồn vào cung và ban tấm biển với chữ “Liệt Phụ Khả Gia”.

Hoàng Thái Hậu Từ Dũ, là chánh cung cuả vua Thiệu Trị, tức Bà Phạm Thị Hằng, người Gò Công, con của Thượng Thư Bộ Lễ Phạm Đăng Hưng.

Bà Nguyễn Thị Tồn đã cứu được chồng khỏi tử hình, nhưng rủi thay, về tới Biên Hoà, Bà lâm bịnh nặng và mất nơi nhà cha mẹ ruột… Quan sở tại nghĩ tình Ông Bùi Hữu Nghĩa, nên đã giúp việc mai táng Bà cho thêm phần tử tế. Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa nghe tin vợ mất nhưng về không kịp, vì đang bị sung quân̉ vùng biên giới Châu Đốc. Khi đến nơi, quá đau lòng, Ông bèn làm bài văn tế muộn, với hai câu đối rất thiết tha cho tình nghĩa phu thê và tôn vinh công đức Bà đảm đang rất mực:

Ngã bần, khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều dã giai xưng khanh thị phụ.
Khanh bệnh, ngã bất dược; khanh tử ngã bất táng, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu.

Dịch nghĩa (do chính Ông Bùi Hữu Nghĩa)

Ta nghèo, mình hay giúp đỡ; ta tội, mình biết kêu oan, trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là vợ.
Mình bịnh, ta không thuốc thang; mình chết, ta không chôn cất; non sông cười ta chẳng xứng gọi là chồng.

Khu Tưởng Niệm:

Tại quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ có “Khu Tưởng Niệm Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa” gồm: ngôi mộ, bia mộ, nhà thờ, nhà khách, nhà trưng bày. Tất cả được xây theo lối kiến trúc cổ rất khang trang và tôn nghiêm. Cổng vào ngôi mộ Ông Thủ Khoa Nghĩa có câu đối bằng quốc ngữ:

Võ Khí Siêu Quần Ý Chí Thanh Cao Như Hạc Trắng.
Văn Tài Xuất Chúng Uy Danh Liêm Khiết Tợ Rồng Vàng.

Phía bên trong cổng có ngôi mộ dài 2m 20, rộng 1m 60 xây bằng đá mài màu hồng dạng bậc thang. Trước Mộ có lư hương, sau Mộ có tượng bán thân Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa bằng ciment cốt sắt sơn màu bạc.

Mặt tiền nhà thờ Ông Bùi Hữu Nghĩa có câu đối bằng quốc ngữ:

Ngòi Bút Nghi Chi Rồng Phụng Cao Bay Ngọc Sắc.
Tấm Gương Hữu Nghĩa Trời Trăng Ngời Chiếu Nước Non.

Vào trong nhà thờ, có tượng Ông Bùi Hữu Nghĩa, và câu đối:

Trung Can Đồng Ái Quốc.
Nghĩa Khí Hiệp Ưu Gia.

Trong Nhà Trưng Bày cũng có pho tượng Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa trang trọng. Riêng về Bài Vị (thần chủ) Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa còn được thờ trong các đình, chùa… Và tên Ông được đặt cho nhiều con đường tại nhiều tỉnh thành, cũng như tên trường Trung Học Phổ Thông ở nhiều nơi. Tại thị xã Châu Đốc có trường Trung Học Thủ Khoa Nghĩa khá lớn, được thành lập đã lâu. Người biên soạn cũng là học sinh Trung học Thủ Khoa Nghĩa Châu Đốc. Ngoài ra, trong nhà bảo tàng thành phố Cần Thơ cũng có pho tượng bán thân Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa rất tôn nghiêm và sắc nét.

Còn về mộ phần Bà Bùi Hữu Nghĩa, nhũ danh Nguyễn Thị Tồn vẫn lưu tại Biên Hoà. Mộ Bà ở Bình Thủy, Cần Thơ chỉ là tượng trưng.

Những bài thơ tiêu biểu mô tả tâm sự của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa:

Khóc Vợ

Đã chẵn ba năm mới đặng thăm,
Màn loan đâu vắng bặt hơi tăm,
Gió đưa đâu thấy hình dương liễu,
Đêm vắng ai hoài tiếng sắt cầm
Chồng nhớ vợ lòng tơ bối rối,
Con thương mẹ lụy ngọc tuôn dầm,
Có linh chín suối đừng xao lãng,
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.

Câu Cá

Danh lợi màng bao chốn lửa hầu,
Thanh nhàn quen thú một cần câu,
Giăng đường chỉ mảnh dòng khơi rộng,
Thả miếng mồi thơm vực cạn sâu,
Khói nước năm hồ tình cả đẹp,
Gió trăng kho cũ cảnh riêng màu,
Bá vương hội cả dầu chưa gặp,
Thao lược này ai biết được đâu.

Quan Công thất thủ Hạ Bì

Hạ Bì ngày nọ chẳng màng nào,
Gương sáng chi lầm chước túng thao,
Chén rượu anh em keo gắn chặt,
Tấm son tôi chúa đuốc chong cao,
Theo rồng dốc nhóm mây trời Hán,
Xuống ngựa đâu tham bạc đất Tào,
Hai mối cang thường gồm đặng cả,
Ngàn năm thơm để miệng người rao.

Thời Cuộc

Anh hùng sáu tỉnh thiếu chi đây,
Đâu để giang sơn đến thế này.
Ngọn lửa Tam Tần phừng đất cháy,
Chòm mây Ngũ quý lấp trời bay.
Hùm nương non rậm toan chờ thuở,
Cáo loạn vườn hoang thác có ngày.
Một góc cảm thương dân nước lửa,
Đền Nam trụ cả dễ lung lay!

Ngưỡng mộ tài đức tiền nhân: Ông Bùi Hữu Nghĩa và Bà, hậu sinh, có bài thơ kính cẩn tưởng niệm:

ÔNG BÀ BÙI HỮU NGHĨA

Cần Thơ vang tiếng bậc nho hiền
Hương Thí thủ khoa Minh-Mạng niên
Phước Chánh Huyện Quan tâm chính trực
Trà Vang Quan Huyện tiếng thanh liêm
Đồng liêu tư kỷ vu lao lý
Hiền phụ thượng kinh giãi nỗi niềm
Oan khuất đèn trời soi chẳng hết
Sung quân biên giới… xót thuyền quyên…!!

Thuyền quyên nghĩa trọng ngậm ngùi thương
Cải dạng nam trang tách dặm trường
Ghe biển quá giang ra xứ Huế
Thân đơn nổi trống tấu tòa chương
Minh oan phu tướng rời lao ngục
Lâm bệnh thê nương chết cuối đường
Đất lạnh ngại ngùng mồ bạc phận
Bơ vơ kỷ độ… ánh tà dương…!!

Kỷ độ dương tà mây lửng lơ
Hàng cây thương tiếc rũ ven bờ
Lá vàng lả tả buồn man mác
Chiều tím bâng khuâng sầu ngẩn ngơ
Ngọc thể hẩm hiu nơi cố quận
Phương danh bàng bạc chốn kinh đô
Xưa nay sinh tử ai mà chẳng…
Liệt Phụ Khả Gia đẹp nấm mồ…!!

Nguyễn Minh Thanh cẩn tác

Lời Phụ Bàn:

Người đời thường nói: “Sau lưng người đàn ông thành công ắt có người đàn bà giỏi giang.” Với trường hợp Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa tương tự. Bởi vì nếu không có Bà Nguyễn Thị Tồn, hiền phụ của Ông kêu oan cho, cuộc đời của Ông sẽ ngắn lại thay vi 65, chỉ còn 41 tuổi. Như vậy thanh danh sự nghiệp Ông chắc chắn không rạng rỡ và noi truyền cho hậu thế như mọi người đã biết. Có thể nói, nếu không có Bà Nguyễn Thị Tồn, thì sự nghiệp của Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa chỉ còn 50%.

Bà Trưng Trắc trả thù chồng… Bà Nguyễn thị Tồn cứu chồng, Bà rất xứng đáng là hậu duệ của Trưng Vương.

Hậu sinh có bài thơ kính ngưỡng tưởng niệm Bà Bùi Hữu Nghĩa, nhũ danh Nguyễn Thị Tồn:

Bà Bùi Hữu Nghĩa (Nguyễn Thị Tồn)

Biên Hoà Liệt phụ sách còn ghi
Chồng bị hàm oan quyết cứu nguy
Xa vợi Đế Đô không nản chí
Cao vời Tam Pháp chẳng nề chi
Đội đơn khiếu nại lên hoàng thượng
Đánh trống kêu oan trước pháp ty
Mới cứu được chồng qua tử tội
Ngậm hờn âm cảnh đã ra đi…!!

Hồn nương mây trắng tà huy
Thăm người đang ở biên thùy gian lao
Tang thương dồn dập mái đầu
Chưa vui xum hợp thảm sầu vĩnh ly…!!

Nguyễn Minh Thanh cẩn tác

Nghi Truyện:

– Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa khi cằm quân dẹp giặc, có lần bị địch xuất kỳ tập kích. Phó Quản Cơ Bùi Hữu Nghĩa bị địch bắt và giải giao về vua Miên là Nặc Ông Đuông. Nhà vua nghe tiếng Ông đã từng bênh vực người Miên về vụ Láng Thé, nên biệt đãi Ông, cho ăn uống tử tế và cho người đưa Ông về nước.

– Bà Nguyễn Thị Tồn, trên đường thượng Kinh, ra Huế, Bà đã bị cưỡng hiếp. Nên khi xong việc trở về, Bà cảm thấy quá xấu hổ, không muốn gặp lại Ông nữa, Bà đã tự tử…!!

Xót xa thay, ngậm ngùi thay!

Than ôi:

Thiên ám địa hôn sầu tiết phụ
Châu trầm ngọc toái khấp thuyền quyên

Bao la đất thảm trời sầu
Châu chìm ngọc nát ngàn sau ngậm ngùi

Nguyễn Minh Thanh cẩn tác

Nguyễn Minh Thanh
GA, Thu 2016

Tham khảo:

– Thành Ngữ Điển Tích – Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Vân Thanh
– Thành Ngữ Điển Tích của Diên Hương.
– Trang Web Bùi Hữu Nghĩa…..
– Tưởng Nhớ Ông Thủ Khoa Bùi Hữu Nghĩa của Hàn Lâm Nguyễn Phú Thứ
– Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh

Nguồn: Tác giả gửi

Đã đóng bình luận.