Nguyễn Mạnh Trinh

Nhà văn Thanh Tâm Tuyền (1936-2006)
Tháng ba. Những tháng ba định mệnh của một thi sĩ tiên phong, một nhà văn lớn. Tháng ba, tháng mà thi sĩ ra đời (15/3/1936) và tháng ba, cũng là thời điểm thi sĩ dời trần thế (22/3/2006). 1936-2006. Bẩy mươi mốt tuổi thọ. Thi sĩ Thanh Tâm Tuyền.
Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh quán tại thành phố Vinh ở Nghệ An, nhưng học trung học tại Hà Nội. Từ năm 1952, ông đã đi dạy học tại trường Minh Tâm Hà Ðông và có thơ đăng trên báo Thanh Niên ở Hà Nội. Di cư vào Nam năm 1954, ông hoạt động trong Tổng Hội Sinh Viên và gặp những người bạn về sau trở thành bạn văn chương như Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Sỹ Tế, Trần Thanh Hiệp. Ông cũng là một trong nhóm các cây bút chủ trương báo Lửa Việt. Sau đó ông có đăng tải nhiều bài trên các báo như Hòa Bình, Dân Chủ, Người Việt. Năm 1955, ông xuất bản tập thơ “Tôi không còn cô độc” và năm 1957 tập Bếp Lửa. Ông trở thành nổi tiếng và là một cây bút tiền phong để thực hiện một cuộc vận động văn chương mới. Ông tham gia vào nhóm Sáng Tạo đã gây được một phong trào văn học mới mẻ, khác xa với khí hậu văn học thời tiền chiến. Aûnh hưởng của ông rất lớnđối với hai mươi năm văn học miền Nam. Tạp chí Sáng Tạo với các cây bút như Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp, Tô Thùy Yên, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền… đã tạo thành một trào lưu văn chương đầy chất khai phá. Ông còn viết cho nhật báo Tiền Tuyến và thường có bài đăng trên các tạp chí văn học như Văn, Vấn Ðề, Bách Khoa…
Tác phẩm của ông gồm hai tập thơ xuất bản ở trong nước trước năm 1975: Tôi không còn cô độc và Liên–Ðêm- Mặt trời tìm thấy và một tập thơ ở hải ngoại sau năm 1975: Thơ ở đâu xa. Về văn xuôi có những tập truyện ngắn: Bếp Lửa, Khuôn Mặt, Dọc Ðường, và những tập tiểu thuyết: Cát Lầy, Mù khơi, Tiếng động, và Một chủ nhật khác. Ngoài ra còn một vở kịch Ba Chị Em, và tập phiếm Tạp Ghi. Nhưng ông cũng có nhiều tác phẩm đã hoàn thành nhưng chưa xuất bản như Ung Thư đã đăng từng kỳ trên tạp chí văn học Văn…
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Thanh Tâm Tuyền là “Một chủ nhật khác”. Tác phẩm viết giữa lúc chiến tranh Việt Nam đang bước vào một lối rẽ mà mầm bại vong đã ló dạng ở xã hôi miền Nam lúc đó. Ông đã linh cảm được biến chuyển của thời thế và những nhân vật của Một Chủ Nhật Khác cũng biểu lộ cái linh cảm ấy. Tháng ba năm 1975, khi mà con lốc dữ đã cuốn đi trên quê hương và là một cuộc đổi đời ghê khiếp của toàn dân miền Nam. Thì tháng ba năm 1975 cũng là thời điểm của “ Một chủ nhật khác” cuốn tiểu thuyết mà thi sĩ viết trong những giờ khắc của một chính thể hấp hối và của một cuộc chiến đã đến lúc ngã ngũ:
“.. Cuối tháng ba bước sang tháng tư, trận chiến bùng nổ quy mô khốc liệt tại các vùng giới tuyến. Quảng Trị mất. Kontum. Bình Long bị uy hiếp. Ðầu tháng năm ấy hòa đàm Ba Lê lại đình hoãn vô hạn định. Hoa Kỳ tái oanh tạc miền Bắc dội bom Hà Nội. Hải Phòng, thả mìn phong tỏa các hải cảng Bắc Việt.
Trong thị xã xuất hiện bóng dân chạy loạn từ Kontum đến từ Huế vào. Lính tráng đi ngoài đường đội nón sắt mang theo vũ khí. Quân trường từng bị đột kích hồi năm Kiệt mới đổi lên, tăng cường bố phòng. Canh gác tuần tiểu gia tăng. Báo động phòng thủ nghiêm ngặt có đêm hai ba lần. Các sĩ quan giáo sư đều bị huy động vào tiểu đoàn trợ chiến cho tiểu khu, các đại đội ứng chiến phân phối cho các cứ điểm thuộc phạm vi trường. Không khí căng thẳng xớn xác..”
Một Chủ Nhật Khác. Một chuyện tình trong bối cảnh chiến tranh như nhà văn Mai Thảo, chủ trương nhà xuất bản Văn ở hải ngoại, tái bản tập tiểu thuyết này, nhận xét: “Trong không khí của mùa hè nóng bỏng chiến tranh, trên thành phố cao rực rỡ rét mướt, là câu chuyện tình của Kiệt. Tình say đắm . Tình thảng thốt. Tình đầu và tình cuối. Tình sống và tình chết. Thơ mộng và tàn ác như rừng rú núi non…
Thanh Tâm Tuyền – tác giả Bếp Lửa, Cát Lầy, Tôi Không Còn Cô Ðộc – đã viết Một Chủ Nhật Khác, một truyện tình hết sức lãng mạn, chứa chất những đam mê vô vọng một thời…”
Không gian của Một Chủ Nhật Khác là của một thành phố cao nguyên tương tự như thành phố Ðà Lạt và quân trường mà ông mô tả giống như trường Võ Bị Ðà Lạt. Những môi trường sống ấy, của năm tháng ấy, quen thuộc với những người Ðà Lạt. Và những nhân vật như ông trung tá già trong truyện cũng là nhân vật có thực ở ngoài đời. Có người đã cho rằng Một Chủ Nhật Khác có thể coi nhưmột bán tự truyện của tác giả. Kiệt có những nét giống đại úy DZưVăn Tâm nhưng không phải là thi sĩ Thanh Tâm Tuyền, cái độc đáo của văn chương ông là tất cả chỉ là mờ mờ không chỉ định, giống nhưng mà không giống và đôi khi chỉ là những gợi nhớ thoáng qua.. Có thể, từ suy tư của Kiệt đã nhiễm tính chất của một thi sĩ, nhìn đời sống bằng con mắt hoài nghi, sống theo dòng cuốn của thời thế và đã có mầm tự sát ngay từ lúc khởi cuộc. Những cuộc tình, như những ngã đường rẽ qua nhiều lối, nhưng rồi, vẫn là sự chọn lựa của một người không chọn lựa, thụ động để rồi kết cuộc là một sự chấm dứt không đột ngột bởi, cái nhân đã khởi đầu cho cái quả. Rất lãng mạn, có không khí chiến tranh nhưng lại có nét hững hờ của một thế giới nào khác chứa đựng những nỗi niềm nào im lìm chìm lắng. Ngay nhân vật như ông trung tá già hay là anh chàng đại úy On đều có nét riêng của những tâm tính riêng. Mỗi một hoàn cảnh, mỗi một con người là những thế giới khác. Và ngay chính trong nội tâm Kiệt cũng là những mơ hồ bất định. Ðời sống trôi đi, tình yêu có thể là lãng quên nhưng cũng có thểlà oan nghiệt nẩy mầm từ đời sống chồng vợ không hạnh phúc giữa Ly và Siêu để thành một mối tình thật lãng mạn nhưng cũng thật nhiều gay cấn của Kiệt và Ly. Cũng như mối tình giữa cô học trò Oanh và thầy giáo Kiệt, trao tặng dâng hiến thân xác như một kỷ niệm để chia xa nhưng vẫn là những nửa vời của một kết cấu nào có những nét phá cách của những tâm tính những suy nghĩ khác thường lập dị.
Không gian ấy có nét bảng lảng mơ hồ của một thời thế sôi sục, của những người lính sống trong một không khí đe dọa nặng nề.Những sinh hoạt của một quân trường với những người trí thức khoa bảng, có nhiều nhân vật lập dị, lúc lai căng vọng ngoại, có lúc kỳ cục dị hợm, được mô tả như một nét chấm phá của một xã hội rệu rã đang bước suy tàn…
Trung úy Kiệt, nhân vật chính “học cơ khí ở Ðức, học Quản Trị ở Mỹ” là một người lính nhưng lại chọn lựa cái chết để giải quyết những vấn nạn của cuộc sống. Những cuộc tình, dù với vợ, Thùy, hay với người tình cũ đã một thời mê đắm, Ly, hay với cô học trò, Oanh, tất cả đều nhuốm vẻ hư vô, và những mầm mống bi quan. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chứng kiến những cái chết, những người trí thức ấy bị đẩy vào cuộc chiến một cách thụ động và tham dự với sự lãnh đạm vô tâm. Quân đội đã tạo cho họ một đời sống với những quy luật cứng rắn hàng ngày. Họ sống như chờ đợi một điều gì bi thảm đang ập đến.
Trong ngày tháng ấy, tình yêu như những lửa ngọn bốc lên và dường như chớm mầm tự hủy ngay từ lúc khởi đầu.
Tình yêu với Thùy, người vợ, có lúc nồng nàn nhưng cũng có lúc hận thù lạnh lùng. Còn Kiệt, vợ con cũng chỉ là một điều gì mông lung lúc nhớ lúc quên của một người như hờ hững với mọi sự trên đời.
“..Trong thời gian này, Kiệt cũng nghe mình hờ hững lạnh nhạt với vợ con. Chàng vẫn nghĩ tới Thùy, tới ba đứa con nhưng không tha thiết buồn khổ lắm. Dường như chàng mải chú ý đến những điều gì mơ hồ đâu đâu. Nhiều khi dưng không chàng sực nhớ những chuyện vụn vặt vô nghĩa, và những nhớ tưởng ấy ám ảnh chàng triền miên. Có lúc Kiệt ngỡ ngàng thấy mình đang sống như cái máy. Ðầu óc chàng lờ đờ chậm chạp. Nhưng đồng thời vang vọng ở chàng một niềm hoan lạc thầm thì khó dứt. Chàng bắt gặp những phản ứng bất chợt kinh ngạc. Những lúc ấy chàng như tỉnh táo hẳn thấy cảnh tượng trời đất chếnh choáng trong gió hoặc bấp bênh nhẹ bổng như thiếu khí thở..”
Như một người mộng du, Kiệt sống phân hai giữa cuộc sống đang náo động bên ngoài và nội tâm hờ hững bên trong. Sự bất nhất hay thay đổi cũng như tự chính mình coi mình như một kẻ lạ khiến những hình ảnh đàn bà như xáo lộn với nhau và gợi đến nỗi lãng quên, “Cùng một lúc chàng nhớ Oanh và Ly, tâm thần bất định xoay chuyển như cánh quạt gió. Chàng nhớ Ly để quên Oanh rồi chàng nhớ Oanh để quên Ly và chàng nhớ Thùy và các con để quên hai người..” Trong một định nghĩa nào đó, tình yêu có phải là sự lãng quên?
Ðọc Một Chủ Nhật Khác, như đọc những mảnh đời của một người. Nhưng, những mảnh đời ấy lại có chất bảng lảng của một không gian thời gian mơ hồ của những hư cấu và hiện thực chen lẫn nhau. Mối tình với Oanh, với Ly, mà sự khao khát dục tính như những mồi nhử loài cá cắn câu, có khi chỉ là của sắp xếp tưởng tượng nhưng lại bỏng rát những vết hằn nhức nhối của những điều tình cờ mà có thể liên tưởng tới từ cuộc sống.. Hình như, cuộc đời dưới nhãn quan và suy tưởng của ông là một chuỗi thất bại. Tình yêu thất bại, làm tình cũng thất bại mà truy hoan cũng thất bại luôn, để đến nỗi cái chết cũng là của một định mệnh thất bại. Và từ một liên tưởng ấy, thân phận trí thức trong một xã hội có bóng dáng chiến tranh cũng là một thân phận của những người dơ tay đầu hàng từ lúc khởi cuộc. ..
Ðọc tiểu thuyết của Thanh Tâm Tuyền, phải đọc Bếp Lửa. Nhân sinh quan của ông nằm trong nội dung của cuốn tiểu thuyết một cách thật rõ nét. Và có nhà phê bình đã nhận định rằng đây là một cuốn tiểu thuyết trong thời điểm đó đã mở ngỏ cho sự khai phá những tiểu thuyết mới.
Ðây là một tác phẩm mà ông đã viết khi còn rất trẻ và mỗi lần tái bản là mỗi lần sửa chữa và viết lại bài đề tựa. Bài đề tựa Bếp Lửa lần thứ hai:
“… Người được đề tặng sách này đã chết.
Hắn. tên Vũ Ðạo Ánh, chết vào một buổi sáng chủ nhật đầu tháng chín năm 1964, tại một khu rừng tỉnh Bình Dương, một viên đạn xuyên ngang ngực năm mới ngoài ba mươi. Vào một buổi chiều cuối thánh tám, hắn còn đứng trước một căn nhà trong hẻm ngoại ô, nhìn qua cửa sổ, đèn trong nhà thắp sáng nhưng mọi người đi vắng, cất tiếng gọi. Như những ngày mùa thu, mùa đông nơi thành phố, xa khuất cũng hơi ngửa đầu lên cao liếc màu trời xẫm màu, hắn gọi đứa bạn của thời niên thiếu nghèo khốn, gọi những mộng phiêu lưu đã bị nghiền nát cùng tuổi trẻ như một Thiên Ðường cửa đóng. Hắn lủi thủi trở về như bị bỏ rơi, chạy qua thành phố Sài Gòn buổi tối còn ngơ ngác những âm vang của mấy ngày hỗn loạn. Có lẽ hắn nhớ tới thành phố của tuổi trẻ, như nhớ tới đứa bạn, hắn đã chạy cuồng trong đó trên chiếc xe đạp tồi tàn giữa những ngày tháng rách bươm, mơ ước cái cơ hội kết tập được ngày tháng tan rã thành một đời ý nghĩa. Có lẽ hắn muốn gặp đứa bạn để hỏi: tại sao mày không viết được gì thêm nữa ngoài cuốn sách đề tặng tao? cuốn sách hắn nhận được vào một ngày cuối năm nào khi còn đóng đồn trên sườn núi ngoài Trung nhớ quê hương đã lìa bỏ cùng mẹvà gia đình ở lại, cuốn sách vợ hắn mang liệm theo xác như một kỷ niệm hắn muốn mang đi. Hắn không gặp đứa bạn và tự hỏi. Nó ra sao? đã lâu không gặp, như ngày nào trong thành phố hoài nghi và khắc khoải, hắn thường tìm bạn và hỏi: Thế nào, chúng mình sẽ đi về đâu?
Hắn gục chết bên một gốc cây, mau lẹ, không đau đớn. Hắn nằm đó, đầu ngoẹo sang bên, gối lên cỏ như một người ngủ mệt sau đoạn đường hiểm trở của Ðịnh Mệnh – Ðịnh Mệnh của một thế hệ, những người còn sống là những kẻ sống sót. Hắn đã đi từ tuổi trẻ bị cướp đoạt, tới nằm đó trong khu rừng giữa cuộc chiến phơi mình làm một sự thật thô sơ, ở đây, trong xứ sở khốn nạn này, cuộc chiến phải chấp nhận không phải là lối phiêu lưu trốn chạy ngông cuồng. Cái chết của hắn không phải là một huyền thoại Rimbaud, một huyền thoại Lawrence, tên bạn hắn hiểu được như vậy.
Chúng muốn gì? Người chết cho kẻ khác sống. Chúng muốn gì?
Những nhà phê bình ở Hà Nội đã gọi các nhân vật trong cuốn sách này là bọn tôi mọi nô lệ. Họ hỏi trong khi họ xây dựng xã hội chủ nghĩa, bọn này đi đâu? Những người ở Hà Nội không khi nào tự đặt câu hỏi với mình, những câu họ thường đặt cho kẻ địch. Bọn chúng đã đi trong thống khổ của lịch sử tới cái chết như sự từ chối quyết liệt. Tại sao / Ðáng lẽ họ phải tự hỏi: tại sao? Cái chết lựa chọn không phi lý, nó sẽ làm nẩy sinh sự thật, sự thật của những người chết truyền lưu cho kẻ sống sót.
Mỗi nhà văn, chính là một kẻ sống sót?…”
Bếp Lửa có không gian của Hà Nội những ngày trước khi mà đất nước chia cắt. Nhân vật tên Tâm đã kể lại chính về cuộc đời mình và cả những người chung quanh trong một thành phố náo loạn bất an. Tâm mồ côi cả bố lẫn mẹ, sống trong một xã hội vẫn còn dưới sự đô hộ của Pháp và những tư tưởng Quốc Gia Cộng Sản xung đột nhau dữ dội. Tác giả Bếp Lửa bằng những nét phác họa rất sắc để tượng hình ra một môi trường sống mà ở trong đó những cá tính về chính trị được biểu hiện rõ nét. Ông hình như không chỉ muốn phác họa một chân dung của Tâm mà còn muốn mô tả cả một thếhệ thanh niên trong thời kỳ đó. Như Bảo một người trong đảng phái Quốc Gia có lúc đã tham dự vào phong trào Ngũ Xã của Việt Quốc nhưng nay đã mất tinh thần và không còn tin tưởng như thời trước nữa. Như Ðại, một người bị mê đắm đến mù quáng vì chủ nghĩa Mác Xít và đang chuẩn bị thoát ly ra khu để theo Việt Minh. Như Hải, một người của phòng Nhì Pháp. Như Ngọc một người có tư tưởng hư vô và không quan tâm đến thời cuộc, cũng như quốc gia dân tộc. Hay như ông Chính, một người Việt Quốc vẫn còn kiên cường đi và tin tưởng vào sự chọn lựa của mình. Những nhân vật ấy đã sống và mỗi người mang tâm trạng riêng, một nỗi niềm riêng.
Chuyện tình trong Bếp Lửa có nét nhẹ nhàng và giản đơn không khúc mắc. Tâm gặp cô bạn cũ tên Hạnh trên một chuyến xe và sau đó đã đi ăn với nhau và ngủ với nhau tại khách sạn. Một vài lần sau cũng tái diễn như thế và với Hạnh, bóng dáng của chiến tranh đã làm cho nàng như lạc vào một tâm trạng khác tạo mê đắm và hứng thú cho công việc làm tình.
Nhà văn Huỳnh Phan Anh có một nhận xét:
“Nếu Bếp Lửa thể hiện một sự thật, một kinh nghiệm thì thất bại chính là tên gọi của sự thật của kinh nghiệm đó. Trong một bài viết vềThanh Tâm Tuyền tôi có đi tới một nhận xét “Ðọc Thanh Tâm Tuyền tức là tham dự một cách nào đó cuộc phiêu lưu trắc trở của một ý thức lạc loài và bất hạnh.”
Nhân vật của Bếp Lửa chính là một trường hợp điển hình của ý thức khốn khổ đó. Một ý thức khốn khổ hay một ý thức trong cuộc hành trình vô vọng giữa hư vô và đổ vỡ. Một ý thức mà giấc mộng “biến cải thế giới”, “thay đổi cuộc đời” “tự do và chọn lựa”.. chỉ là một nỗi đam mê vô ích giưã những thế lực mù quáng của Ðịnh Mệnh và lịch sử không ngừng “lấn áp ở mọi phía”. Một ý thức trong cô đơn và bất lực bị kết án phải “đi một mình suốt đời” giữa bốn bề bốn động tối tăm.
Cuốn sách mở ra một cuôc hành trình, hành trình vào cõi đêm thâu. Trên từng câu ngắn, trên từng ý nghĩa cô đơn, người đọc không đọc mà lắng nghe, lắng nghe cái âm vang lạc loài của những bước chân cô đơn quờ quạng..”
Ðoạn kết của Bếp Lửa, với ngôn từ của một thứ tuyên ngôn, là những câu chữ xác định một thái độ sống, của một tấm lòng mở rộng ra với cuộc đời, mà ý tưởng ấy có lẽ không phải chỉ một mình ông mà còn có thể là chung của cả một thế hệ: “Khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi. Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng. Ðời người vô cùng, rồi cũng đến vậy thôi.”
Người ta thường nói đến Thanh Tâm Tuyền thi sĩ, Thanh Tâm Tuyền nhà văn viết tiểu thuyết, viết những bài khảo luận văn học.. Nhưng, tôi còn tìm thấy ở ông một kịch tác gia. Vở kịch “ Ba Chị Em “ mở ra cho tôi thấy thân phận những người phụ nữ mang tên Thu, Nguyệt, và Hương, ba chị em cùng mẹ khác cha. Cả ba người ở trong những trạng thái tinh thần kỳ lạ, lúc thù ghét nhau, lúc khinh khi nhau và có khi đến trạng thái thù hằn nhau. Ba người đối xử với người mẹ cũng khác nhau. Thu thì khinh bỉ mẹ trong khi Hương thì yêu thương mẹ và Nguyệt thì chỉ mong muốn được sống gần gũi với mẹ. Nhưng dù thế nào chăng nữa, họ cũng không thể phủ nhận là mang trong người dòng máu của mẹ. Nhân vật tệ hại nhất trong vở kịch là chồng của Thu mà tác gỉa gọi bằng “Thằng khốn nạn”, ngoại tình với Hương và sẵn sàng quỳ lạy Nguyệt để xin xỏ tình yêu. Thu giết chồng để tỏ ra mình là người thủy chung trong khi Hương dửng dưng và thiêu đốt tất cả để bôi xóa những thù hận. Màn kịch cuối trươc khi cả ba chị em về nhà mẹ thì Hương vun cỏ khô quanh nhà đốt cháy để có ngọn lửa cho ba chị em còn soi tỏ được mặt nhau. Vở kịch mở ra những liên tưởng từ bà mẹ tượng trưng cho đất nước Việt Nam và “thằng khốn nạn” tượng trưng cho một thứ giáo điều cứng ngắc suốt dời dai dẳng bám sâu vào tiềm thức dân tộc và chỉ bị cắt đứt bằng máu như hành động giết chồng của Thu. Ba chị em cùng chia nhau một người đàn ông cũng giống như phải ôm chặt một thứ chân lý đã lỗi thời và hành động dùng máu để đoạn tuyệt chính là một hành động cần thiết. Nhân vật của kịch Thanh Tâm Tuyền thường thường yếu đuối nhưng có lúc cũng rất quyết liệt để bày tỏ thái độ sống của mình…
Tác phẩm văn xuôi của Thanh Tâm Tuyền gồm tiểu thuyết Bếp Lửa, Cát Lầy, Mù Khơi, Một Chủ Nhât Khác, tập truyện Dọc Ðường, Khuôn Mặt, Tiếng Ðộng, và Tạp Ghi là tập hợp các bài viết khảo luận văn học. Nói về truyện ngắn, phải kể đến một truyện ngán rất đặc sắc. Truyện ngắn Dọc Ðường, với những đoạn đối thoại đặc thù ngôn ngữ miền Nam tả lại một hoạt cảnh của chiến tranh mà ở đó thân phận con người bị coi rẻ và mọi người bị bắt buộc trong cái thế phải ích kỷ để bảo tồn sự sống của mình và gia đình mình. Một người đàn ông đi kiếm người em bị lộn xe nên lỡ độ đường và bơ vơ giữa một thị trấn bất an mà đêm tối và người lạ là những nguy hiểm chực chờ cho người dân sống ở những vùng xôi đậu. Bằng những câu đối thoại hàm xúc, không cần tả tình, chẳng cần tả cảnh, thế mà với ngôn ngữ rặc miền Nam ấy, Thanh Tâm Tuyền đã lột tả được một khía cạnh của chiến tranh và nói lên được cái thân phận một cổ hai tròng của những người dân phải chịu đựng những nghiệt ngã của cuộc chém giết đang tiếp diễn.
Có một điều tôi vừa tìm được trong tư liệu của Thanh Tâm Tuyền là trong lúc còn ở trong nước khi vừa ở trại tù ra vì sinh kế ông có dịch cuốn truyện của Vladimir Nabokov từ bản dịch tiếng Anh Mary của Micheal Glenny “Tình một thuở” do nhà xuất bản Ðồng Nai in năm 1989. Nhà văn Phạm Kiều Tùng rất thích hai câu thơ mà Thanh Tâm Tuyền dịch từ thơ Puskin qua bản tiếng Anh của đầu bản dịch:
“gọi về dan díu bao năm cũ
gọi về đây, tình một thuở
(Having recalled intrigues of former years,
having recalled a former love).
Nguyễn Mạnh Trinh
Nguồn: Tác giả gửi

















