Đặng Châu Long
Trong không khí se lạnh những ngày trước tết âm lịch, những hoạt động quanh tôi như dần chuyển động theo nhịp điệu tiết mùa. Càng ngày cái nhộn nhịp càng tăng dần và cứ thế, mỗi con người cảm nhận được điều thiêng liêng nhất của năm đang diễn ra
Tết âm lịch mang ý nghĩa lớn lao nhất là sự sum vầy của từng gia đình. Dù khó khăn vất vả, dù sang hèn, dù ở đâu xa xôi, cái Tết như một tiếng nói thầm thì nhắc nhở : Hãy về, hãy về cùng những người thân thương để chia sẻ buồn vui, thành bại qua một năm vừa trải.
Vợ chồng tôi không ngoài nỗi niềm khoắc khoải đó, năm nay chúng tôi về thật sớm, từ rằm tháng chạp đã có mặt tại quê nhà Diên Khánh cùng đứa cháu nội Tố Nghi.
Sau một tuần bận rộn cùng bè bạn thời học sinh Lasan Bá Ninh, bạn thời niên thiếu, thời gian khó…, chúng tôi trở lại giòng sống êm ả nơi vùng quê Vườn Trầu trên Thành Diên Khánh.
Sáng nay, theo thông lệ, tôi mở máy vào internet xem email, xem facebook để cập nhật những thông tin của bè bạn. Có một email tôi đọc xong cảm một niềm bồi hồi. Bạn Cao Đức Minh, cùng lớp thời Lasan Bá Ninh báo cho tôi biết sau lần họp mặt tại Houston 2013, tiền quỹ nhóm còn một ít và các bạn quyết định chuyển về Việt Nam cho các bạn cùng lớp chúng tôi để mang đến cho những nỗi đời bất hạnh trong dịp Tết Giáp Ngọ.
Dư âm của lần tất niên cùng các em khuyết tật trong Cộng Đoàn Lasan Thánh Tâm vẫn còn đọng trong tôi. Hình ảnh các em khuyết tật thật trong sáng và hồn nhiên. Không một chút mặc cảm, các em đã hòa vui cùng nhóm Lasan Bá Ninh chúng tôi như những người bạn thân phương xa vừa trở về . Chúng tôi đã cùng quyết định hàng năm, trước những lần họp mặt trường Tất Niên và Tân Niên, sẽ trở về vui cùng các em trước khi các em chia tay các Freres về ăn tết quê nhà.
Tôi liên tưởng về một lần đến với các em nhỏ, trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt và không bao giờ tôi quên những hình ảnh ấy
Đó là vào giữa cuối năm 1981, những năm gian khó của tôi trong A 30 Thạch Thành, Tuy Hòa. Thời gian đó, tôi cùng đội củi của A 30 đi lên Sơn Thành, vùng rừng núi, nơi có một khu kinh tế mới của Tuy Hòa, để chặt củi cung cấp cho bếp ăn củi Trại A 30.
Thuở tôi lên đó, rừng núi còn hoang sơ, ngọn núi Mái Nhà còn xanh thẳm cây rừng. Buổi sáng cả đội vào rừng đốn củi, chặt đủ mỗi người một thước khối nghiệm thu rồi lại trở về nhà tập trung trong bìa làng kinh tế mới. Nơi đây, phần lớn cư dân là dân vùng biển từ Phường 6 Tuy Hòa chuyển lên. Họ sống nhờ vào nương rẫy , những nương rẫy chỉ toàn cây mì, bắp và rau. Không có kinh nghiệm trồng trỉa, họ mò mẫm trồng, mò mẫm làm và sống qua ngày. Lũ trẻ con thì đen đúa, nhỏ con vì thiếu ăn và kiếm sống khiến tôi chạnh nỗi niềm thương cảm.
Sát cạnh lán trại tôi ở là nhà một gia đình thuần hậu, cũng là dân Phường 6. Hai vợ chồng cùng 4 đứa con sống trong mái tranh nhỏ bé bao bọc bởi vườn rau luống cải. Sơn, đứa con lớn nhất của gia đình chỉ mới khoảng 11, 12 tuổi nhưng trông già dặn trước tuổi, có lẽ từ những cơn sóng gió đời. Sơn hàng ngày giúp chúng tôi mua từng bó rau, nhúm ớt để phong phú thêm bữa ăn vốn quá đơn sơ đạm bạc. Bù lại, tôi và một anh bạn cùng đội giúp Sơn học tập sau mỗi lần xong công tác trở về. Dần dà, chúng tôi khắn khít như anh em trong gia đình.
Một buổi sáng, búa rựa trên vai, chúng tôi tiến về núi Mái Nhà như lệ thường, bỗng thấy trước mắt tôi hàng trăm người tay rựa dàn hàng ngang đi lên núi. Chúng tôi có hỏi nhưng không ai trả lời ngoài sự hăm hở, xông xáo. Chúng tôi cũng bỏ đi làm việc đốn củi như thường ngày của mình. Xế chiều trở về, đoàn người lúc sáng cũng ra về với gánh gồng trên vai những dây leo to như cổ tay trở về. Những dây leo đó tuy tôi không biết tên nhưng không lạ gì bởi chúng tôi thường ngồi lên chúng đong đưa sau những lần đốn củi vất vả, còn bản thân dây leo đó với chúng tôi không có giá trị gì. Phơi khó khô, chụm khó cháy. Nhưng hôm nay tại sao….
Về tới lán trại, tôi hỏi Hùng mới hay đó là cây Bạch Chỉ, một loại cây thuốc đang được thương lái thu gom với giá rất cao. Hèn gì sáng nay mình hỏi ai cũng lầm lỳ không nói, chắc sợ chúng tôi chia phần. Họ đâu biết chúng tôi chỉ là những người mang thân lao lý, làm sao dính dự vào việc mua bán như họ.
Buổi tối, vùng Sơn Thành thật đìu hiu, cái im lặng của không gian núi rừng mênh mông làm mình cảm nỗi cô quạnh của kẻ xa nhà. Chiếc lán trại tứ bề trống hoác không một chiếc vách để ngăn cơn gió núi lạnh lẽo tràn về. Nằm thao thức ngó mông lung, vành trăng non tháng 8 nhẹ chiếu ánh hiu hắt làm tôi chợt nhớ sắp Trung Thu. Nhớ những Trung Thu trước 75 tôi cùng bè bạn Thanh Niên Hồng Thập Tự Khánh Hòa tổ chức những buổi lửa trại, nhớ những lần vui cùng các em bé trong đêm Trung Thu bên ánh lửa tại 21 Gia Long, 23 Nhị Hà, và nhiều nữa………tôi lại nghĩ đến thân phận của các em bé tại Sơn Thành, những trẻ không có tuổi thơ khiến tôi chạnh buồn và băn khoăn không sao ngủ được
Buổi sáng hôm sau. Dù qua một đêm dài khó ngủ, nhưng tôi vẫn rủ nhóm cùng chặt củi với tôi: anh Tường, Lai, Hùng, Thi, Ninh đi lên rừng sớm. Không vội tới điểm chặt củi ấn định, ngang qua núi Mái Nhà, chúng tôi thăm lại nơi ngày hôm qua đã bị càn quét tận tình bởi hàng trăm người đi săn Bạch Chỉ. Khu rừng như một bãi chiến trường sau cơn binh lửa, những cành lá tả tơi, những dây bạch chỉ bị chặt vội vã để tranh thủ thời gian chiếm tiên cơ. Quan sát một lùm bạch chỉ còn sót lại, tôi biết có thể khai thác theo lối tận dụng với một giá trị không hề nhỏ. Nhanh chóng, tôi bàn cùng các anh sẽ mót chúng để làm cho các em Sơn Thành một Trung Thu đúng nghĩa. Nhưng cái băn khoăn là làm sao chuyển và làm sao bán ? Chúng tôi đâu được phép. Tôi nói thôi kệ, chuyện đó tính sau, còn bây giờ cứ gom số lượng có được vào một chỗ. Cắt 2 người ở lại lo Bạch chỉ, chúng tôi đi làm củi cho trại. Ngày hôm nay phải gánh thêm hai chỉ tiêu củi cho 2 anh bạn lo chuyện….vác ngà voi.
Buổi chiều, chúng tôi gom những khúc Bạch Chỉ mót được trong ngày giấu vào một chỗ và trở về lán trại. Dọc đường tôi lại nhớ đến Hùng.
Nghe Hùng nói sẽ giúp chúng tôi chuyển và bán số Bạch Chỉ đó, chúng tôi rất mừng vì đang đi dần tới ước mơ một đêm cùng các em dự Trung Thu miền núi. Tôi dặn em cứ giữ tiền sau khi bán để Trung Thu sẽ tính tiếp.
Liên tiếp mấy ngày sau, Hùng mang bao và quang gánh cùng chúng tôi lên núi chuyển mớ tài sản trời cho đó về cân cho thương lái. Dù không được giá như chính phẩm, nhưng tất cả đủ cho các em một đêm trọn vẹn tuổi thơ.
Buổi sáng 14 Trung Thu, ba của Hùng đã xin phép cán bộ quản giáo đội cho cả đội tham gia văn nghệ cùng các em trong đêm lửa trại Trung Thu đặc biệt đó. Dĩ nhiên người tổ chức là ba của Hùng chứ không phải là chúng tôi. Ba của Hùng xin là phải được vì nhà ông cũng là nơi tá túc của nhóm cán bộ trại trong suốt thời gian chúng tôi làm củi tại đây. Mỗi người trong Đội sau lao động vui vẻ vác về từng cây củi gộc để chuẩn bị cuộc vui trở về tuổi thơ tối hôm nay . Chất từng thanh củi từ nhỏ đến lớn, tôi có cảm giác như mình tự do như thời niên thiếu, chuẩn bị cho một lần bùng lên, bùng to thêm ngọn lửa tình thương giữa chốn thế nhân trĩu sầu.
Nhìn các em reo hò vui vẻ, tôi nghe như lòng mình tràn ngập hân hoan, Có lẽ người vui nhất là tôi chứ không phải là các em bởi niềm vui này vẫn còn đọng mãi trong tôi cho đến tận hôm nay, lúc nào nhớ lại, tôi cũng còn vẳng nghe lời bài ca tôi hát ngày ấy:
Trăng trung thu là trăng Việt nam tươi sáng
Đêm Trung Thu đèn sao cờ bay phất phới
Ấy tết thiếu nhi câu ca vang trời
Ấy tết thiếu nhi là muôn điệu múa vui tươi
Sau ngày tôi ra trại về lại quê nhà, mấy hôm sau, từ Sơn Thành, Hùng một mình lần mò tìm về Vườn Trầu Diên Khánh , nhà tôi. Má của Hạnh hỏi là ai vậy, tôi nói là bạn ở tù chung. Bà ngạc nhiên lắm vì Hùng quá nhỏ để phải chịu như vậy. Riêng tôi cứ tủm tỉm cười giữ riêng bí mật của niềm vui trong lòng.
Vậy đó, sự quan tâm với tha nhân chẳng phải đợi thong thả, dư tiền, nhưng tất cả đều có thể làm được ngay trong nỗi đau khổ ngậm ngùi.
Giữa trang nghiêm thiêng liêng của mùa xuân, tôi chỉ nguyện cho mỗi chúng ta biết nhìn nhận nhau trong cuộc sống, mỗi nỗi đời là một nỗi đời chung.
Đặng Châu Long
22-01-2014
Nguồn: Tác giả gửi


















