Archive for the ‘Phạm Nga’ Category

Phạm Nga

1.
Sau nhiều năm cặm cụi làm ăn, chắt mót dành dụm, năm 1990 vợ chồng tôi cất được một căn nhà nho nhỏ cấp 4 trong một con hẻm gần nhà ga Xóm Thơm (Gò Vấp). Tạ từ căn phòng vách ván ọp ẹp, nhỏ như cái lỗ mũi trong nhà cha mẹ bên Đồng Ông Cộ (Bình Thạnh), chúng tôi về ở nhà của mình. Khoảng giữa năm 2018, theo dự án tuyến metro Trảng Bom – Hòa Hưng và làm đường hành lang an toàn song song đoạn đường ray xe lửa chạy ngang vùng Gò Vấp, từ tâm đường ray tùy chỗ sẽ lấy vô 15 hay 20 mét, có nghĩa hàng trăm căn nhà xưa nay an ổn nằm cạnh đường ray khu ga Xóm Thơm sẽ mất mặt tiền hay phần nhà phía trước hoặc bên hông. Riêng nhà tôi cùng mấy chục nhà hàng xóm bị giải tỏa trọn lọn – tức mất trắng do lọt vào một diện tích dự kiến cất nhà ga/trạm khách gì đó cho tuyến metro tương lai, nên từ tâm đường ray sẽ lấy vô sâu tới 50 mét – oái ăm nhà tôi nằm cách đường sắt chỉ khoảng 40 mét.
(more…)

Phạm Nga


Nhà văn Huỳnh Phan Anh (1940-2020)

Sau tháng 4-75, trong số các nhà văn, nghệ sĩ, nhà giáo chế độ cũ về cộng tác với nhật báo Tin Sáng (*) ở Tp. HCM – như Hoàng Ngọc Biên, Cao Thanh Tùng, Đinh Cường, Cao Huy Khanh, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Nhật Duật…, nhà văn/nhà giáo/dịch giả Huỳnh Phan Anh đến với tờ báo khá muộn. Trong 6 năm tờ báo tái bản (1975-1981), anh Huỳnh Phan Anh chỉ góp mặt khoảng hơn 1 năm.

Ở Tin Sáng, mọi người thường gọi anh là “anh Tâm” theo tên khai sanh “Huỳnh Thành Tâm” của anh. Ban đầu, trong ban văn hóa – xã hội (gọi tắt là văn xã) do anh Hoàng Ngọc Biên phụ trách, anh Huỳnh Phan Anh chuyên về các tin, bài mảng giáo dục trung học và đại học. Đến khoảng đầu năm 1981, ban văn xã tách đôi, ban văn hóa tiếp tục do anh Hoàng Ngọc Biên làm trưởng ban, còn anh Huỳnh Phan Anh nhận nhiệm vụ mới: trưởng ban xã hội. Đó là về các sếp, còn về lính lác là đám phóng viên, anh chị em có thể ngõ ý chọn ban nào, sau đó tòa soạn mới sắp xếp lại.
(more…)

Phạm Nga

1.
Những ngày này, bởi ảnh hưởng của liên tục những cơn bão ngoài Trung, Sài Gòn mưa liên lỉ, hết cơn lớn, ào ạt trút nước lại đến cơn nhỏ lâm râm kéo dài. Tôi đành bó gối ngồi nhà, bởi ngại mưa gió nên cả những công việc cần thiết phải đi – trong đó có đi bộ ở công viên, cần cho việc trị tiểu đường- cũng đành bỏ qua hay gác lại, nói gì đến chuyện đi chơi, ra quán quen gặp bạn già tán gẩu… Càng nên ít ra đường, đến nơi công cộng còn vì  ‘giãn cách xã hội’ có mức độ vẫn còn cần thiết bởi COVID-19 chỉ lắng xuống, chưa hề kết liễu. Đành xa cách, vắng mặt đối với phố phường thân quen.
(more…)

Phạm Nga

1.
Đời người là bể khổ!”, sống ở đời đã là người thì ai trong chúng ta cũng đều ít nhiều từng trải qua những kinh nghiệm hiển nhiên, rất cụ thể về khổ đau. Nguyên  từ ‘khổ’ cùng từ ghép ‘khổ tâm’thường được dùng để biểu thị những tình trạng xấu, tiêu cực, thương tổn về tinh thần, cảm xúc, như khi bị mất người thân, mất tài sản, thất tình, thi rớt, bị đuổi việc, làm ăn thua lỗ, tù tội…; còn từ ‘đau’ cùng từ láy ‘đau đớn’ biểu thị nghiêng về tình trạng xấu, tiêu cực, thương tổn nơi thể xác hay cảm nhận giác quan do báo động ‘đau’ từ hệ thần kinh, như khi bị thương tích trên người, bệnh tật, đau nhức ở một bộ phận cơ thể, giải phẫu…

Tuy nhiên, như cả phương Tây cùng phương Đông đều công nhân, con người tức TÔI/CHỦ THỂ từ căn bản là một thực tại duy nhất/thống nhất, có 2 phần TÂM lý và THỂ lý hoạt động song hành nhịp nhàng, luôn hỗ tương, ảnh hưởng nhau. Ví dụ: nói “Tôi khổ vì cái khớp vai đau mãi” là chuẩn nhất theo quan điểm ‘Tâm thể lý song hành’nêu trên, cho thấy cái tôi chủ thể đã cảm nhận mình bị khổ (thương tổn tâm lý) khi khớp vai bị đau (thương tổn thể lý). Tương tự, trong ngôn ngữ văn chương một chút thì có từ ‘đau thương’ thật hay, bắt đầu bằng chữ ‘đau’nghe nghiêng về thể xác nhưng chữ ‘thương’ đi kèm đã cho thấy ngay là chủ thể ‘tôi’ đang bị thương tổn nhất định cả về tâm hồn lẫn thân xác. Còn nói: “Răng tôi đau” thì ai cùng hiểu, nhưng chính xác hơn nên nói là “Tôi đau răng”, theo nghĩa ‘Tôi đau ở răng’.
(more…)

Phạm Nga

1.
Một sáng chúa nhật, một anh bạn hẹn tôi uống cà phê gần cổng Nhà Thiếu nhi thành phố mà không phải chỗ nào khác vì trúng bữa anh phải đưa con đến đây học vẽ. Lâu rồi, từ hồi chưa xây tòa nhà mới thật hoành tráng thì cái trung tâm sinh hoạt lớn nhất thành phố  này vẫn đã dành riêng cho trẻ em đến vui chơi, học tập các môn có tính năng khiếu như hội hoạ, âm nhạc, võ thuật.v.v… Có một dạo, dù còn phải kiếm sống khá chật vật, tôi cũng ráng đưa con gái mình đến học vẽ trong dịp hè. Con bé thích học đàn dương cầm hơn nhưng học phí môn này thì cao mà phần thực tập, ngồi vào đàn thì khá ít ỏi. Đành tránh qua một bên môn chơi quí tộc này thôi!
(more…)

Phạm Nga

Thời ăn độn, phật tử rất sùng đạo như mẹ tôi cũng đành bỏ đi chùa ngày rằm, mùng một để còn lo xếp hàng mua gạo, mắm theo “tiêu chuẩn” ở phường, hay may hàng gia công kiếm tiền chợ, phụ vào đổng lương chết đói của mấy đứa con công nhân viên…

1.
Là con gái sinh trưởng ở miền biển, thuộc một gia tộc giàu có với nghề lưới đăng lâu đời, mẹ tôi đẹp mặn mòi lại giỏi khéo về nữ công gia chánh nên ông ngoại gả chồng khá sớm. Mẹ sinh tôi năm bà 24 tuổi, tuổi Sửu của con nhỏ hơn tuổi Sửu mẹ đúng hai con giáp. Con trai đầu lòng thằng tôi rất đươc cưng, lúc nào mẹ cũng chăm sóc tôi từng li từng tí.
(more…)

Phạm Nga

1.
Hôm nay đã mùng 10 tháng chạp, cái chợ nhỏ bên cạnh nhà thờ Xóm Thuốc Gò Vấp rộn rịp người đi mua sắm đồ Tết. Chờ bà xả vào chợ mua mấy bộ quần áo làm quà Tết cho cháu nội, Hòa ngồi ở một quán cà phê gần cổng nhà thờ. Anh chạnh nhớ đâu khoảng hơn 20 năm trước, có thời gian mình đã thường ghé nhà hai người bạn thân ngụ trong giáo xứ này.

Hòa có nhóm bạn 4 – 5 người, cùng dạy học ở chế độ cũ, nay cùng ngụ ở vùng Gò Vấp, gặp nhau vẫn thường gọi nhau “thầy” dù chế độ mới không cho dạy học nữa. Bạn trong nhóm đều rơi vào khó khăn, thiếu thốn ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 75. Có điều là, dù cùng xuất thân là nhà giáo, kiểu truân chuyên, khó khăn của riêng mỗi thầy lại đều mang đầy cá tính, không ai giống ai.
(more…)

Phạm Nga

1.
Hòa biết bản “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ khi Hòa mới 15 tuổi, đang học lớp đệ tam C trường Pétrus Ký. Ông nhạc sĩ tài hoa đã kể thuở còn một cậu bé 14 tuổi sống trên Đà Lạt, ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con Gà thì tình cờ gặp một cô gái rất xinh. Mở lời làm quen thì biết cô ấy lớn hơn mình 2 tuổi nhưng trái tim vụng dại của cậu con trai mới lớn vẫn đập loạn nhịp trước bóng dáng thiếu nữ có mái tóc dài buông thả, đẹp như mộng ảo giữa cảnh sắc đồi thông Đà Lạt sương mù.

Hòa mê mẩn trước lời kể của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, rằng có một lần tan lễ Giáng sinh thì trời đổ mưa, cô gái nép vội vào mái hiên ngôi nhà nọ gần nhà thờ, ông cũng đứng trú bên cạnh. Những kỷ niệm và xúc cảm thiết tha lần ấy chính là nguồn cảm hứng để ông viết nên bản “Bài thánh ca buồn” sau này.
(more…)

Phạm Nga

1.
Từ tấm bé tôi đã mê, rất mê ăn bánh tráng cùng đồ cuốn, tức món gì đó cuốn (hay quấn) với bánh tráng gạo. Già đầu một chút, từ khẩu vị đã biết chọn lọc, phân biệt, khen chê trong ăn uống, tôi bèn lý sự nhằm chính thống hóa cho sở thích ẩm thực của mình. Rằng, Việt Nam có thức ăn chính, làm căn bản hàng đầu cho người Việt no bụng là cơm, cơm làm nền cho vô số các món ăn khác, gồm: mặn, canh, xào, kho, chiên, nướng, hấp, luộc…, rất đa dạng, phong phú. Theo bản sắc ẩm thực Việt Nam, cơm không chỉ có mặt ‘làm nền’ trong các bữa ăn thông thường hằng ngày mà cả trong dịp tiệc tùng, người mình cũng hay dùng gạo ngon nấu thêm chút cơm trắng để sẵn đó, để dành cho khách thích dùng cơm cho “chắc bụng”.

Bánh tráng cũng gần như vậy, thức ăn ‘làm nền’ này luôn có thể phối hợp với nhiều thức ăn khác – như thịt, cá, tôm, mực… – thành bộ ‘đồ cuốn’ hết sức đa dạng. Đồ cuốn hấp dẫn tôi đến nỗi tôi đã ngầm tha thiết muốn vận động cho bánh tráng cuốn được xếp vào thức ăn chính, mẫu mực hàng thứ nhì của Việt Nam, nghĩa là chỉ đứng sau cơm.
(more…)

Phạm Nga

 
Friedrich Nietzsche (1844-1900)

“Với tư thế thi sĩ, là kẻ tiên đoán những ẩn ngôn, là kẻ cứu chuộc sự ngẫu nhiên, ta đã dạy loài người sáng tạo tương lai và trong khi sáng tạo, giải thoát những gì đã xảy ra.” (Zarathoustra đã nói như thế – Nietzsche)*.

1.
Trong cuộc hiện sinh, kinh qua ý thức về sử tính của mình, con người chua chát nhận ra rằng thế giới và tha nhân đã có đó, đã xảy ra…, dửng dưng như một sự đã-rồi. Và lắm lúc sự đã-rồi là điều nhục mạ thân phận con người. Dù con người có phản tĩnh, tra hỏi ý nghĩa kỳ cùng của cuộc đời, hay liệu có một Thượng đế bí hiểm, tánh khí bất thường, khó chịu nào đó đã nhào nặn Định Mệnh hay không, trần gian cũng đã bày ra muôn vàn vẻ mặt đọa lạc, tàn nhẫn, bất hòa với ý chí con người. “Chúng ta sinh ra quá muộn màng, mọi điều đã được phát biểu…” một nhà văn đã than van như thế. Hay nhìn theo nhận thức luận, nền văn minh nhân loại – thành quả của lý trí – có thể ví như một gã khổng lồ, mà sau những nỗ lực trí tuệ, tâm linh uyên áo nhất mới đứng được trên vai hắn, những nhà hiền triết, đạo gia, tức những nhân cách ưu việt hiếm hoi trong các thế hệ loài người đều mong mỏi nhìn sâu, nhìn xa hơn vào lịch sử.
(more…)

Phạm Nga

1.
Sau biến cố 30 tháng 4, gặp thời thất nghiệp tôi đi phụ hồ, phụ mộc, phụ chạy ống nước… kiếm sống thì quen anh A Chúng, gốc người Quảng Đông, cũng dân học tập cải tạo, từng ở trại hơn chục năm bởi làm bên ngành ANQĐ. Trong đám thợ đi sửa nhà, cất nhà, anh cựu “mất dạy” là tôi khi làm thợ phụ, thợ vịn cho công việc nào đó thì phải mất một ít thời gian mới thạo việc. Còn anh Chúng, cũng gốc lính tráng chứ nào phải thợ thuyền nhưng đã tỏ ra là thợ chuyên nghiệp thật sự khi chúng tôi lãnh chạy ống nước. Đó là anh đã có thể vẽ ra giấy nhanh, gọn các sơ đồ hệ thống nước sinh hoạt sẽ làm và tính luôn ra sẽ cần bao nhiêu thước ống nhựa với kích cỡ nào, bao nhiêu cái cút, măng-xông, rôbinê, tê… (1).

Có lần, khi cà phê cà pháo, tôi nức nở khen tài nghề của anh Chúng:

“Nhà lầu mà anh vẽ sơ đồ chạy ống một hơi ba tầng, phân minh, đâu ra đó ngon lành thì anh đúng là ông thầy!”

Anh Chúng cười:

“Ông thầy gì, nhờ hồi trước khi vô lính, tôi có đi phụ ông chú làm thầu khoán nên biết cái vụ chạy ống nước thôi. Còn anh, hồi trước dạy học mới đúng là sư phụ.”
(more…)

Phạm Nga

1.
Hồi tôi mới lên đại học là năm 1967, học lớp dự bị Triết trường Văn Khoa, có lần một ông anh rể đã dẫn tôi đi chơi, tập tành nhậu nhẹt với một loại rượu bình dân nhưng rất đả. Đó là nhãn rượu Vĩnh Sanh Hòa, còn gọi là Vĩnh Tồn Tâm, chai thủy tinh vuông 1 lít, uống với Soda thì tuy thoang thoảng mùi thuốc Bắc nhưng ngon không thua cho lắm nếu so với whisky soda, chẳng hạn như Bee Hive, Johnny Walker.

Để uống Vĩnh Tòn Ten – dân bợm thường gọi tếu như thế – ông anh đã dẫn tôi khu Chợ Cũ, cuối đường Hàm Nghi, Quận Nhứt Sài Gòn thời đó, vào một tiệm nước của người Tàu, đối diện hơi chếch bên kia đường là tiệm bánh danh tiếng Như Lan. Gọi rượu và soda xong, ông anh bước qua đường, vào một tiệm Tàu bán đủ thứ thịt quay: heo quay, gà vịt, vịt quay, lòng phá lấu, xá xíu…, nhưng bởi là tư chức lương thấp, anh tôi chỉ gọi một thứ… tổng hợp, toàn là cổ, chân, cánh gà vịt quay, lổn nhổn trong miếng lá chuối, bọc thêm giấy báo tiếng Tàu bên ngoài.
(more…)

Phạm Nga

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời

(Tô Thùy Yên)

1.
Qua Úc lần này, tôi trở lại ngay với cái hẹn mỗi sáng với anh Thành sui gia là cùng ra cái công viên không-có-hàng-rào gần nhà để đi bộ thể dục. Từ năm ngoái năm kia, anh Thành từng ân cần dẫn dắt tôi đi bộ buổi sáng bởi anh thuộc hàng “chuyên gia” đi bộ, rất rành rẽ về các công viên lớn/nhỏ ở các vùng Cabramatta và Liverpool. Đáng nể hơn là kỳ này, dù sức khỏe vừa có vấn đề, anh vẫn không gác bỏ cố tật mê đi bộ.

Hơn 10 năm trước, thời anh Thành chưa qua đây định cư, một bệnh viện nhân dân nào đó ở VN đã mỗ cấp cứu ca nghẹt ruột non cho anh. Đến năm ngoái, ở đất Úc này vết mỗ chợt viêm sưng nặng nề, anh bị cứng bụng, bỏ ăn và ngất xỉu vì đau, gia đình lại phải lập tức đưa anh đi cấp cứu. Lần này, bệnh viện công ở Liverpool , với ca mỗ suốt 3 tiếng đồng hồ, đã phải cắt bỏ 8 tấc đoạn ruột có vết mỗ cũ đã biến dạng. Vì trước đây không được may, nối hoàn chỉnh, nay chỗ ruột này hoại tử, đe dọa làm thúi luôn các phần ruột xung quanh.
(more…)

Phạm Nga

1.
Mấy ngày trước, nhà trên của từ đường họ Phạm, nhất là ở khu vực ngay chính giữa nhà là gian thờ tổ tiên, tất cả đều được quét dọn, lau chùi hết sức sạch sẽ, tươm tất. Phía trước gian thờ, cũng chính là mặt tiền nhà từ đường, đã lâu lắm rồi mới thấy cả ba bộ cửa bằng gỗ quí đồng loạt được mở hoác ra cho không khí, nắng gió bên ngoài được phép lùa vào, xua đuổi cái mùi ẩm mốc lưu niên của những thứ đồ nội thất cổ lỗ sĩ, nặng nề là bộ ván gõ cùng các thứ tủ, bàn, kệ thờ, hương án, tranh tứ bình, cặp liễng…

Theo thói tục phong kiến, trong ba bộ cửa lùn thấp, đầy vết mối mọt ấy, bộ cửa chính giữa, cứ như một tuyến phòng ngự cố định cho gian thờ đang nổi đèn nổi đóm sáng trưng giữa ban ngày kia, chỉ được mở hé và đóng lại lập tức khi có người lách mình vào để thắp nhang đãnh lễ hay bày dọn đồ cúng. Nên nhớ là dù ngày giỗ hay ngày thường, có tục lệ khô cứng là phụ nữ dù có vai vế trong gia tộc cũng không được bén mảng, vô ra nhà thờ bằng bộ cửa chính giữa này.
(more…)

Phạm Nga

Sau ngày công viên Gia Định 2 mở cửa phía bên kia đường Hoàng Minh Giám, rộng rãi hơn và và cảnh trí cũng đẹp công viên cũ bên này đường, tôi vẫn tiếp tục đến chỗ cũ mà từ dạo ấy, tên nó dài hơn một chút cho phân biệt: công viên Gia Định 1.

Có thể là do sức ì tâm lý của tuổi già mà người ta cứ trung thành với một quán cà phê, một sạp báo, một tiệm hớt tóc quen thuộc nào đó của mình, như riêng tôi cứ tiếp tục chọn “sân gôn” cũ – như dân địa phương quen gọi. Đúng ra, còn vì tôi ngại đi bộ băng qua đường. Thật ngán khi công viên của tôi mở cửa lúc mờ sáng, không khí đã nặng ô nhiễm mùi xăng dầu, bụi bậm và tiếng động vì sát bên là một cái ngã năm náo nhiệt – được mở rộng ra từ ngã ba Chú Ía Gò Vấp, một xóm mại dâm nổi tiếng thời chiến tranh – đã rất đông xe cộ các loại rồi.
(more…)

Phạm Nga

Sáng này, nghe tôi than cái cột sống lưng thoái hóa, không thể đi bộ quãng đường xa, anh sui Ngọc Thành chỉ đưa tôi ra trạm xe bus ngay trước nhà để lên Cabramatta uống cà phê. Ngồi cà phê Nhớ cả buổi, anh mới hỏi tôi có thể đi dạo công viên ở… hơi xa một chút được không. “Đi dạo mấy cái công viên ở vùng Cabramatta, Liverpool này thì không có gì lạ nhưng công viên ở Parramatta thì đặc biệt tĩnh lặng. Thú vị lắm, ông đến sẽ ưng ý liền!”, anh Thành diễn giải thêm. Thế là hai bạn già ung dung ngồi tàu điện đi Parramatta. Từ nhà ga ra đường phố, Parramatta thật sầm uất, nhộn nhịp, và đúng như anh Thành ‘dân Cabra.’ nhận xét, cư dân Parramatta hầu hết là gốc Úc, Âu da trắng, rất ít người gốc Việt, nên không ồn ào như ở Cabramatta, đường xá, vỉa hè rất sạch mà hầu như không thấy có góc nào nhếch nhác. Tuy nhiên, hai bạn già dù vẫn không có gì vội vã vẫn không hề rề rà dừng lại nơi nào. Chúng tôi đi một hơi, bình thản rời khỏi các khu phố thương mại và phố hành chính tráng lệ, nguy nga đầy màu sắc để sớm tìm đến mục tiêu hôm nay: công viên Parramatta.
(more…)

Phạm Nga

1.
Nhớ mấy ngày đầu sau 30/4, có một ông “nón cối” thường xuất hiện ở nhà tôi. Tội nghiệp ba mẹ tôi đã tốn nhiều quà cáp, trọng vọng quá sức người bà con mới nhận lại này, chỉ mong dựa hơi cán bộ để kiếm việc làm cho con cái. Do đó, không ai được phép nhắc tới cái thời ông này đi tập kết năm 54, làm việc mấy năm trên lưng mấy con bò ở nông trường Sơn La hay Mộc Châu gì đó rồi được đề bạt đi học, rồi cũng thành y sĩ ngành răng-hàm-mặt, tức rành rành thuộc giới trí thức miền Bắc. Nghe nói thằng cháu dạy học ở chế độ cũ đang thất nghiệp ở chế độ mới, ông bảo gọi tôi tới. Chăm chú ngắm tôi vài giây – chắc ông xem tôi có “trí thức miền Nam” chút nào không – rồi ông lấy ngón trõ vỗ vỗ vào màng tang mà phán rằng: “Cháu học Văn khoa? Chà, trí thức tiểu tư sản, lại học triết nữa thì tư tưởng khó chuyển biến đấy! Phải phấn đấu nhiều lắm mới được. Phải chi cháu tốt nghiệp kỹ sư kinh tế chẳng hạn thì bác có thể giới thiệu cháu tham gia công tác ngay ở…“.
(more…)

Phạm Nga

1.
Anh Hiền dẫn tôi đi lòng vòng trong con hẻm cả tiếng đồng hồ mới tìm được đúng cái địa chỉ mơ hồ mà tôi muốn tìm đến. Thấy cửa khóa im ỉm, chúng tôi hỏi hàng xóm thì được biết cặp vợ chồng già người Bắc làm nghề đồng bóng này đã lần lượt qua đời sau 30-4, chỉ còn lại người con trai nhưng anh ta hiện cũng đi vắng.

Thấy bộ mặt thất vọng của tôi, anh Hiền rủ đi uống café:

– Anh muốn viết về nghề lên đồng, hát chầu văn của người Bắc? Mình tìm đến ông bà này là đúng chỗ rồi, hồi xưa cả hai rất nổi tiếng ở vùng Phú Nhuận, giờ tiếc là…

– Vậy anh rành về chuyện đồng cốt của người Bắc lắm hả, kể nghe đi. Tôi thì chỉ biết chút ít về chuyện lên đồng, nhập xác của dân Nam bộ thôi.
(more…)

Phạm Nga

1.
Xưa nay, đường Tự Do (tên hiện nay là Đồng Khởi) ở khu trung tâm Quận 1 Sài Gòn dù chỉ là một con đường ngắn và hẹp nhưng vẫn được tiếng là con đường đẹp nhất, sang nhất, đông người nước ngoài nhất thành phố Sài Gòn xa xưa và cũng có thể nói như thế về quãng thời gian sau tháng 4-75 cho đến nay.

Vừa qua, trên trang trithucvn.net, trong bút ký tựa là “Văn Hóa Không Tên Tạo Nên Linh Hồn Của Sài Gòn Xưa”, nhà văn Văn Quang đã ghi nhận rằng trên con đường Tự Do đẹp, sang ấy lại có một chuỗi 3 nhà hàng/quán cà phê là La Pagode, Givral, Brodard đã tỏ lộ cái hồn văn hóa đầy sức sống tự tại của Sài Gòn xưa.

Văn Quang kể:

“Nói đến La Pagode, Givral, Brodard… chắc chắn những người đã từng sống, từng ghé qua Sài Gòn chưa ai quên. Nhất là những văn nghệ sĩ, nhà báo, dân biểu, thường ngồi ở đấy làm nơi trao đổi tin tức nghề nghiệp. Còn một số lớn khách du lịch, sĩ quan, quân nhân, công tư chức làm việc tại “thủ đô miền Nam” và các bạn trẻ Sài Gòn thập niên 60-75 cũng hay lui tới nơi này.”
(more…)

Phạm Nga
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (Thiền sư Mãn Giác)

1.
Mùa Tết Kỷ Hợi vừa qua, thời tiết diễn biến khá tốt, từ sau ngày lặt lá (15 tháng Chạp), nhà vườn trồng mai vùng ngoại ô Sài Gòn đã an tâm đón nhận một vụ mai Tết thành công tốt đẹp. Riêng ở quận Bình Chánh, các nhà vườn tại xã Bình Lợi, với thương hiệu “mai vàng Bình Lợi” đã có tên tuổi, mai vàng trồng đất (cứng, khỏe hơn trồng chậu) và mai vàng bonsai của bà con được các thương nhân từ Bắc chí Nam nườm nượp đến tranh nhau thu mua, bán cả qua Campuchia rất nhiều.

Đối với dân trổng mai, xưa nay sợ nhất là vào các tháng chạp âm lịch, những trận mưa trái mùa vô duyên, không-mong-đợi thường phá hại nhiều cây mai giành để bán Tết, chưng Tết. Như vào tháng chạp năm Bính Thân 2016, những cơn mưa đột ngột khá lớn vào các ngày 17, 18, 28 đã khiến mai Tết năm đó hư hại bộn bề, nhiều nhà vườn – như ở vùng Thủ Đức – khổ sở vì thất thu, bởi mưa làm mai nở sớm trước thời điểm lý tưởng là ngày mùng một Tết. Và chúng ta, những người thích chưng mai vào các dịp Tết cổ truyền hằng năm cũng mệt mề vì mai kiểng trên thị trường hoa Tết các năm đó, tập trung là ở các chợ hoa xuân đã vừa mắc lên vừa kém đẹp so với mùa Tết các năm khác.
(more…)

Phạm Nga

Nhớ cái thời ‘ăn độn’ thập niên 80, có những cái Tết đầy khó khăn, thiếu thốn đã để lại trong tâm khảm tôi dư vị thật chua chát, nay ngồi chợt nhớ lại mà không khỏi chạnh lòng áy náy, sượng sùng, tội nghiệp cho chính mình…

Khi tôi đi học tập cải tạo về rồi lập gia đình (1977) thì thời thế sau 30 tháng 4 đã chất chồng khó khăn về mọi mặt. Gia đình cha mẹ, anh em tôi thì ở Sài Gòn, gia đình bên vợ tôi thì ở Vũng Tàu, cách nhau hơn 100 cây số, còn tôi thì sau ngày học cải tạo về đã bị chỉ định phải nhận việc ở một nông trường vùng Củ Chi, cách Sài Gòn 45 cây số. Bên nào cũng nghèo, nhất là nhà bên ba má tôi rất chật hẹp, nên vợ tôi cùng hai đứa con phải về nhờ đỡ bên ông bà ngoại ở Vũng Tàu. Ngày thường thì đã phải sống xa vợ con, cha mẹ nên mùa Tết đến là tôi lại đắn đo và thường là tôi chọn (gọi là) ăn Tết ở quê vợ, vì dù sao cũng là gần vợ, gần con mình.
(more…)

Phạm Nga

1.
Xa xưa, vài năm đầu thập kỷ 60, chiến tranh còn chưa khốc liệt mà chỉ mới có mặt đâu đó ở những vùng rừng núi thật xa đô thành Sài Gòn, lâu lắm mới nghe tiếng đại bác chợt vọng về thành phố ban đêm. Do đó, ít ra là đối với tuổi niên thiếu hồn nhiên của những cậu bé dân Sài Gòn như tôi, những tháng 12 thời ấy quả là “bình yên dưới thế”, bọn nhóc chúng tôi tha hồ háo hức trông chờ những lễ hội lớn lao, thật vui vẻ là Noel và Tết dương lịch.

Cứ bắt đầu nghe bản Jingle Bells vang vang ngoài phố cùng hình ảnh ông già Noel cỡi xe tuần lộc, tươi cười trên những tấm thiệp đẹp đẽ là tôi đã cảm thấy vô cùng nôn nao, hí hửng. Bọn trẻ, bọn thanh niên nam nữ thì lúc nào chẳng chộn rộn trong những mùa hoan lễ.
(more…)

Phạm Nga

1.
Trước ngày 30-4, không ai có thể tranh cải về chuyện bà Tư cắt giác là Phât tử nhiệt tình nhất, công quả nhiều nhất cho ngôi chùa tại vùng Thắng Nhứt này. Sớm hôm bà Tư tận tụy tham gia mọi hoạt động của nhà chùa, từ cúng kiếng, hành lễ, tiếp phẩm cho nhà trai, đến việc chăm sóc hoa kiểng, sửa chữa điện, nước…

Đúng ra thì xa xưa hơn nữa, dân cái xóm phố bên này và xóm lưới bên kia con đường quốc lộ đều mang ơn bà Tư cắt giác nhiều lắm. Bà gốc người Bắc, tuổi đã ngũ tuần, khá đẫy đà, nước da ngâm ngâm, bước đi nhanh nhẹn. Bà góa chồng, không con cái, làm nghề cạo gió, giác hơi nhưng còn biết và giỏi nhiều nghề khác. Gặp khi tối lửa tắt đèn, có nguời bị trúng gió, ngất xỉu hay rối rắm, lúng túng hơn là đau đẻ thì đã có ngay bà Tư. Bà mụ vườn này cũng rất mát tay khi chỉ vẽ, chữa trị những bịnh lặt vặt như hóc xương, trật khớp, đau bụng… Bà cũng sẵn sàng cho mượn những món tiền nhỏ khi bà con ngặt nghèo hay khuyên bảo, hòa giải những lục đục trong gia đình người này, người khác.
(more…)

Phạm Nga

Năm tháng trôi qua, cứ ăn-chắc-mặc-bền, cà phê bình dân thầm lặng phục vụ cho giới người nghèo, dân lao động nơi nơi, tại những quán cóc trong hóc hẽm hay các sạp, tủ bán cà phê /nước giải khát trên vỉa hè, trong bến xe, trước cửa các trường học, nhà thương, rạp hát, chỗ làm giấy tờ… Có điều là cách pha cà phê đã dần hồi đổi khác…

1. Cà Phê “Vợt” Bình Dân

Trong cõi nhân sinh đầy triền phược, bất công này lại có một điều bình đẳng thật hay ho là mọi người chúng ta, bất kể giàu hay nghèo, đều có thể uống cà phê. Từ những người nghèo, thật nghèo hèn như anh xe ôm, cậu sinh viên, dân lượm ve chai cho đến những người giàu, thật giàu có như ngài tổng giám đốc ngân hàng, ông chủ hãng xe hơi, vị trưởng phòng kinh doanh công ty nước ngoài…, đến cơn ghiền hay khi chợt nghĩ mình nên đi uống cà phê, hoặc vào bất cứ lúc nào đó rảnh rang, đều có thể đi một mình hay cùng bạn bè, đồng nghiệp ghé một quán cóc thật xập xệ bên đường hay một quán cà phê giá vửa phải hoặc một quán máy lạnh thật sang trọng, để mỗi người có thể nhâm nhi, thưởng thức món cà phê theo ý mình.
(more…)

Phạm Nga

1.
Vào cuối những năm 80, do kiếm sống khó khăn, nhà ở mướn thì quá chật chội, tôi không thể nuôi chó dù vợ chồng tôi, nhất là con gái tôi, lúc đó mới 7 tuổi – đều rất thích có một chú cún dễ thương, chạy tung tăng trong nhà.

Một hôm, trên đường chở cô bé đi học về, tôi chợt không thể không dừng xe lại khi chứng kiến một con chó ta bị xe hơi cán, gần như gãy lìa một chân sau. Chú chó kêu ăng ẳng đến chói tai, vừa cố lê lết vô lề đường vừa liếm lia lịa vào chỗ chân gãy, nhầy nhụa máu thịt.  Rất thương con chó nhưng bất lực, không thể làm được gì cho con vật bất hạnh, tôi đành rời bỏ cảnh tượng thê thảm này, lái xe đi tiếp.

Nhưng con gái tôi thì không hề rời bỏ con chó! Cháu rụt rè hỏi tôi, giọng nhỏ quá sức giữa cái ồn ào của phố xá:

– Con chó chắc là đau lắm hả ba? Con thấy máu… Máu nhiều lắm ba à!
(more…)

PhạmNga

Biển cả ru tâm hồn tôi bằng khúc tình ca bất tận…
(Ca từ trong bản “La Mer” của Charles Trenet, 1945)

1.
Đang mùa hè ở nước Úc, năm giờ chiều, chiếc tàu câu rời cảng nước sâu Botany Port tiến ra khơi, mặt trời vẫn còn chói chang ở phía Tây, nắng rực rỡ, ngỡ như xế trưa ở Sài Gòn. Dù bờ biển phía bắc vịnh Botany có phi trường quốc tế Sydney luôn rộn rịp, phi cơ lên xuống liên tục, vịnh biển xanh này vẫn có vẻ gì đó tỉnh lặng, hoang liêu. Tàu câu sơn hai màu đen/trắng, kiểu dáng thật đẹp, dài 6.5 m, máy Honda 225 phân khối. Cường – bạn câu rất thân của chủ tàu – đã cho tôi và anhThành sui gia uống ngay 1/2 viên chóng ói. Mở đầu buổi câu, Phương – tay chủ tàu dễ mến – cho tàu chạy đến một góc vịnh, chỗ nước cạn có nhiều rong để mò bắt sò lông. Mọi người đều nhảy xuống nước cùng mấy cái thùng nhựa, chỉ còn mỗi mình tôi ngồi dựa mạn tàu với cái Hi- Res WalkMan. Tôi gắn tai nghe, mở máy, lơ đãng nhìn vùng biển, trời trước mắt. Sau mấy bản Summer Jazz/BossaNova ồn ả, phấn khích, nhịp 2/4 đổi sang Fox, dìu dặt, êm đềm. Vâng, đó là một ca khúc tuyệt diệu về biển mà tôi nhất định phải mở nghe lúc này – “La Mer” của danh ca Pháp quốc Charles Trenet (*).
(more…)

Phạm Nga

Nhận cái hẹn ăn nhậu với mấy ông bạn ở khu du lịch Văn Thánh, tôi đã ra đường sớm hơn giờ hẹn vì sợ mưa và kẹt xe. Trời tối hẳn mà chưa bạn nào đến nên tôi đứng trước cổng chờ. Phone cho tay “chủ xị” thì hắn còn bận và bảo hay là tôi cứ vào nhà hàng chọn bàn, kêu bia uống trước. Do ngại mình là được mời thôi, vô uống trước thì hơi kỳ nên tôi đành tiếp tục đứng ngoài đường.

Tôi ngáp, nhìn bâng quơ sang bên kia đường. Sau khi giải tỏa trống trơn, bến xe Văn Thánh hiện được xây lại, thành một trung tâm thương mại, dịch vụ gì đó. Hồi bến xe này mới đóng cửa, vợ tôi còn đi buôn chuyến hàng tạp hóa xuống Vũng Tàu và tối mịt mới về, nên thường đêm tôi phải ra đón ở một cái bến xe “chui” xuất hiện bên hông cái chợ  cũng tên ‘Văn Thánh’ gần đó. Ở cái thành phố náo nhiệt này, ở một đoạn đường có đất trống hay cạnh một khu chợ bất kỳ nào đó, chợt có một ít người tụ tập, thỉnh thoảng có vài chiếc xe dừng lại đỗ khách xuống hoặc đậu chờ số khách không thích vào bến mua vé, và luôn luôn có đám xe ôm và dân bán hàng rong…, là coi như đây là một bến xe “chui” đang ngạo nghễ hoạt động. Không có chuyện ủy ban nhân dân sở tại đến tra hỏi ai đó về giấy phép lập bến, cũng không có cảnh sát giao thông đến “làm việc”, “vịn” những chiếc xe khách đỗ sai bến. Đã có thế lực bảo kê xong xuôi hết rồi. Tất nhiên, chủ những chiếc xe sử dụng bến xe “chui” phải chi tiền cho thế lực. Và chẳng rõ có dựa vào thế lực nào khác không mà ở khu vực này còn có khá nhiều gái đứng trong tối.
(more…)

Phạm Nga

1.
Hằng năm, cứ trong vòng tháng Ba âm lịch như lúc này là ở khắp nội ngoại thành Sài Gòn, các ngôi miếu thờ Ngũ Hành rộ lên cúng vía – tên dân gian gọi chung cho Năm Bà tức Ngũ Hành Nương Nương. Như hôm 19 ta, lễ vía Bà ở chùa Vạn Thọ bên bờ kênh Nhiêu Lộc đã diễn ra suốt ngày đêm.

Buổi sáng đã có một nhóm tế nam, với y trang đĩnh đạc áo thụng xanh, nón cánh chuồng, chuyên đi học trò lễ. Nhưng được bà con, cô bác mong đợi và kéo đến xem đông hơn là mấy em bóng, nhóm tế này chỉ vào đám buổi xế trưa.
(more…)

Phạm Nga

1.
Theo dự báo của ngành khí tượng, mùa mưa năm nay ở Nam bộ sẽ giống năm ngoái, tức bắt đầu từ tháng 4. Sau vài lần chập chờn “giả mù sa mưa” chóng vánh rơi vài giọt như bụi nước, đêm qua – rạng sáng ngày cuối cùng của tháng 3, cơn mưa coi như đầu mùa từ giữa đêm đã tuôn xuống vùng Sài Gòn, ít ra là ở khu vực Gò Vấp tôi ở mưa đã kéo dài và lớn dần khi về sáng, mặt trời ló dạng mới chịu tạnh. Và cũng giống như nhiều năm trước, cơn mưa đầu mùa năm nay cũng đột ngột xuất hiện sau vài ngày nắng nóng…
(more…)

Phạm Nga

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (Thiền sư Mãn Giác)

1.
Lâu nay, vào tháng cuối các năm âm lịch, thỉnh thoảng những trận mưa trái mùa đã phá hại nhiều cây mai giành để chưng Tết. Mấy ngày gần đây, giới trồng mai bán Tết lại rầu lo vì nhiều cây mai của họ đã nở bông sớm vì vừa bị năm nhuần vừa bị những trận mưa vô duyên!

Tôi nhớ vào tháng chạp năm Bính Thân 2016, những cơn mưa đột ngột khá lớn vào các ngày 17, 18, 28 cũng đã khiến mai Tết năm đó hư hại bộn bề, nhiều nhà vườn – như ở vùng Thủ Đức – khổ sở vì thất thu, bởi mưa làm mai nở sớm trước thời điểm lý tưởng là ngày mùng một Tết. Và chúng ta, những người thích chưng mai vào các dịp Tết cổ truyền hằng năm cũng mệt mề vì mai kiểng trên thị trường hoa Tết, tập trung là ở các chợ hoa xuân đã vừa mắc lên vừa kém đẹp so với mùa Tết các năm khác.
(more…)

Phạm Nga

– Nó giết mấy con gà, nó sát sinh. Rồi mấy cậu giết nó, rồi ăn nó, tới phiên mấy cậu cũng mang tội sát sinh!

Tôi cảm thấy khó chịu, xốn xang. Ánh nắng xế trưa chiếu xuyên qua tán lá cây mít, vẽ những đốm sáng lay lắt lên đỉnh đầu, gò má bọn tôi nhưng chẳng ai thèm để ý mà tránh né. Tựa lưng vào gốc cây, tôi uể oải đưa tầm mắt ra xa, vượt khỏi khu vườn còi cọc của Châu, nhìn về núi Dinh Cố. Bên dưới vài đám mây trắng lóa bởi nắng đang rất gắt giấc này, sườn núi xanh rờn màu cây lá, lác đác vài chỗ chợt sẫm tối bởi bóng mây.
(more…)

Phạm Nga

1.
Năm nào cũng vậy, không khí mùa Giáng sinh đến sớm nhất với mọi người là qua nhạc Noel. Ngoài đường phố, các nơi còn chưa trang trí, làm đẹp bên trong, bên ngoài thì nhiều quán cà phê, siêu thị, trung tâm thương mại… đã bắt đầu rộn ràng phát dòng nhạc vui tươi ấy. Cả những chiếc xe đẩy, xe ba gác xập xệ bán đĩa nhạc rong, ngày ngày chuyên lặn lội vào những con hẽm xóm lao động, phát toàn nhạc tình, nhạc buồn, nhạc lính với điệu Boléro, cũng ‘độn’ vào vài bản nhạc Noel lời Việt và phát đi phát lại mãi hai bản mà giới bình dân hay trí thức gì cũng đều thích như Chuông Ngân Vang, Đêm Thánh Vô Cùng…
(more…)

Phạm Nga

1.
Một buổi sáng, tôi tranh thủ vào vào Viện 175 thật sớm, định bụng thăm đứa cháu xong là đi làm luôn. Chiều hôm trước, trên đường đi học về cháu tôi bị ngã xe khi phải tránh gấp một em bé đột ngột chạy ra đường. Đứa bé gây ra chuyện đã không hề hấn gì nhưng cháu tôi bị gãy tay, phải đưa đi cấp cứu…

Tình cờ vừa đi đến gần cửa phòng cấp cứu thì tôi phải tránh sang bên để nhường lối đi cho 3 -4 người đang hối hả khiêng vào phòng một ông lão, đầu bê bết máu, nghe nói bị xe đụng. Người gây tai nạn cũng phụ khiêng ông lão, đó là một anh công nhân hốt rác, vẻ mặt ảm đạm cùng cực. Anh rầu rĩ kể lại chuyện-xui-hết-chỗ-nói của mình. Đi gom rác trong các ngõ hẽm từ hừng đông, khi xong việc anh đã về nhà bằng chiếc Honda cà tàng lâu nay. Khi đó, đường xá còn vắng vẻ, từ xa anh đã thấy ông lão đang từ từ băng qua đường, nhưng… Anh thề là lúc đó, anh đã chợt nhận ra ngay người đàn ông này giống y nguời bệnh tâm thần, vừa nhìn xuống đất vừa nói lầm bầm một mình, bước vài bước lại dừng, lại bước tiếp mà chẳng thèm nhìn xung quanh. Anh đã la lớn cho ông lão cảnh giác là có xe đến gần, còn về phần mình thì tìm cách vừa thắng vừa lách mũi xe. Rất tiếc, chính cái kiểu vừa đi vừa dừng bất ngờ của ông lão đã khiến anh không tài nào tránh nổi nạn nhân.

Bác sĩ xem phim chụp X quang cho biết trong đầu ông lão có… một đầu đạn.
(more…)

Phạm Nga

Vào năm 1943, tức cách đây 74 năm, Nguyễn Bính cùng Tô Hoài, Vũ Trọng Can rủ nhau làm chuyến “hành phương Nam”. Chính ra, cách nói “hành phương Nam” liên quan mật thiết đến một bài thơ tựa là ‘Bài hành phương Nam’, được Nguyễn Bính sáng tác cũng trong năm 1943. Đó là một bài thơ phóng dật, chan chứa cảm thán từ cả hai chuyến nhà thơ vào Nam rong ruổi giang hồ…, do trước đó, vào khoảng năm 1939, Nguyễn Bính đã từng vào Sài Gòn và vài vùng lân cận, lê gót ở Chợ Quán, Đa Kao rồi sang Biên Hòa, xuống Mỹ Tho, Vĩnh Long…

Mặt khác, tương tự như thể loại ký sự, bút ký bên tản văn, ‘hành’ bên thi ca mang tính cách một hình thức phô diễn những suy nghĩ, cảm xúc của nhà thơ về một hoàn cảnh sống, một hành trình, cả là một đào thoát về mặt tâm tưởng. Nếu xa xưa, thi ca Trung Quốc có bài ‘Tỳ bà hành’ nổi tiếng của Bạch Cư Dị thì Việt Nam cũng có các bài ‘Tống biệt hành’, ‘Can trường hành’, ‘Vọng nhân hành’ tuyệt hay của Thâm Tâm, và tất nhiên cả bài ‘Bài hành phương Nam’ với cái tựa thật nôm na, giàu ấn tượng của Nguyễn Bính.
(more…)

Phạm Nga

1.
Từ cái may mắn đầu đời thật tuyệt diệu là được sinh ra ở vùng đất biển Nha Trang, tôi đã hồn nhiên thích biển, một mực khoái biển ngay từ tuổi ấu thơ. Rồi sau này, vào năm ra trường đi dạy học, may mắn nữa là tôi lại được bổ nhiệm về Vũng Tàu, cũng miền biển!

Lúc đó đang mùa nghỉ hè, mà vào niên khóa sắp khai giảng, Bộ giáo dục sẽ bắt đầu cho dạy môn sinh hoạt học đường ở bậc trung học. Khóa tập huấn đầu tiên về môn nhiệm ý mới mẻ này được tổ chức ở Vũng Tàu, kéo dài sáu tuần, quy tụ khoảng 30 nam, nữ giáo viên thuộc các trường công ở Sài Gòn và các tỉnh lân cận, tất nhiên có cả các trường của đất “chủ nhà”. Ông hiệu trưởng trường tôi, sau khi tiếp nhận tờ sự vụ lịnh trình diện của tôi, đã hỏi han sơ sịa vài câu về gia đình, thân thế của “kẻ mới đến”, rồi đúng kiểu có-mặt-đặt-tên, ông mau mắn giao luôn công tác đầu tiên cho hắn: đi dự khóa tập huấn môn học mới.
(more…)

Phạm Nga


Bé Phụng và mèo

1.
Tánh anh nóng nảy, nổi cộc lên thì coi hung lắm, phải đi chùa cho nó trầm tính lại”. Đã một thời, nhiều lần vợ tôi đã nhận xét và đề nghị như vậy.

Ngày xưa, bố tôi theo Tây học, từ Bắc vào Nam làm báo, ra cả báo Pháp và dịch sách, tánh khí nghệ sĩ, phóng dật, khiến cho căn nhà nhỏ của gia đình ở khu Đa Kao thời đó thỉnh thoảng lại chộn rộn cái không khí văn chương chữ nghĩa. Có lần, lấy cớ khui một chai rượu chát rất xưa, bố tôi mời vài người bạn thân đến nhà chơi. Cần nói thêm là trong số văn hữu của bố tôi thời đó, tôi khoái một bác cùng dân Bắc kỳ, để chút râu kiểu Hitler dưới mũi, thường phong nhã với bộ cánh veston, foulard với ống píp, đó là nhà thơ/nhà văn Tchya Đái Đức Tuấn. Núp phía sau một bức bình phong, tôi lén theo dõi người lớn nói đủ thứ chuyện trên đời. Chợt tôi nghe bác Tchya cười, vỗ vai bố tôi, gật gù bảo: “…Vậy là toa cũng rất libéral về vấn đề tôn giáo!”.
(more…)

Phạm Nga

1.
Hòa mời riêng một số bạn bè thân – toàn ở lứa U70 như anh – dự một buổi tiệc đơn sơ tại nhà, nói là ngày kỷ niệm 40 năm chung sống của vợ chồng anh. Vừa khai tiệc, một ông bạn nhiều chuyện ý kiến ngay:

“Các bạn ơi, như kỷ niệm ngày cưới ở năm thứ 40 anh Hòa chị Lụa đây thì Tây họ gọi là đám cưới Hồng Ngọc, còn kỷ niệm 45 năm là đám cưới Lam Ngoc, kỷ niệm 50 năm là đám cưới Vàng, 60 năm thì đám cưới Kim Cương…. Thôi, ai chớ tui giờ phải lo để dành tiền để tương lai còn dự mấy đám ngọc lam, vàng, kim cương kia nữa!”
(more…)

Phạm Nga

chua_nui_ta_cu

Mấy ngày nghỉ lễ vừa rồi đám bạn già rủ đi Mũi Né tắm biển chơi, rồi nếu ai nấy còn sung, trên đường về sẽ ghé chùa núi Tà Cú. Tôi thắc mắc, hết tháng Bảy âm lịch rồi còn hành hương gì nữa thì ông bạn đề nghị vụ đi chơi này giải thích cảnh chùa Linh Sơn giữa rừng núi mùa nào cũng đẹp và lên chùa còn để xin trúng lô tô kiểu Mỹ nữa, thưởng jackpot lên gần chẳn 30 tỷ rồi!

Do thích chụp ảnh nên từ lâu rồi tôi đã từng rong rủi dặm trường, thăm các thắng cảnh, các chùa chiền ở vùng duyên hải Bình Thuận, như Mũi Né, chùa Linh Sơn, dinh Thầy Thiếm, chùa Cổ Thạch … Tôi nhớ nhất là chuyến hành hương đâu khoảng đầu năm 2002, khi núi Tà Cú còn chưa có cáp treo đưa khách lên chùa Linh Sơn như hiện nay nhưng đã có đường trải nhựa đã làm xong từ ngã ba quốc lộ 1 chạy vô tới chân núi.
(more…)

Phạm Nga

cafe_86

Đi trên đường John, cứ ngỡ Sài Gòn một dạo;
Ngồi Cà phê 86, cứ ngỡ tưởng Brodard.

*Nguyễn Ngọc Thành

1.
Tôi đến Sydney vào cuối tháng 11. Nghe vậy, một người bạn vui vẻ nhắn trên facebook “OK, ở đây đang cuối xuân đầu hạ. Còn vài cơn mưa nhưng nói chung là ấm áp, mát mẻ…”. Lần đầu tiên đặt chân đến nước Úc, rồi ở được vài ngày, tôi lại thấy cái ‘nói chung’ trong message của anh bạn có hơi khác trời thực đất thực một chút. Trước hết, thời tiết ở đất Úc – ghi nhận cụ thể là thành phố Sydney, nơi tôi sống gần 3 tháng – phải nói là lạ lùng. Giữa mùa hạ, giữa những chuỗi 3 – 4 ngày thật nóng đột ngột có một ngày lạnh, bất kể hôm đó không mưa hay có mưa. Hoặc sáng ra, mới sớm mai chỉ thấy nắng, nóng nhưng đến trựa lại đổi qua lạnh, lạnh luôn đến chiều tối. Có ngày, đã biết trước là 37-38 độ C nhưng sáng sớm, mở cửa bước ra đường thì phải có áo ấm, khăn choàng cổ vì lạnh đến 16 -17 độ C. Trước tình trạng này, từng có người, sáng ra tưởng bở, không thèm đem áo lạnh theo khi ra đường nên đang đi chơi ngoài phố phải chạy vô shop mua ngay cái áo lạnh trồng vô người mới có thể đi chơi tiếp… Tôi không thể không tỏ bày về kiểu thời tiết chuyển biến kỳ cục này thì anh sui lắc đầu, nhún vai: “Bởi vậy nên dân Việt tụi tôi ở đây rồi mới kêu là… Úc Khùng!”.
(more…)