Archive for the ‘Nguyễn Lệ Uyên’ Category

Nguyễn Lệ Uyên

mua_cao_nguyen

Nước trên cao chảy xuống ì ầm
Vượn bồng con lên non hái trái
(ca dao)

…ngày… tháng… năm…

Gửi anh,

Tính từ ngày xách va li lên tàu, đến nay đúng hai tháng. Khoảng thời gian không dài không ngắn, giữa núi rừng trùng điệp này, đủ để tôi mang trái tim ra nghĩ về cách hành xử của mình và không thể không giải bày với anh bằng những suy nghĩ dài lê thê, với lòng mong mỏi anh và những người thân yêu sẽ dần hiểu tôi.

Ngay từ lúc chọn nghề, cả ba mẹ, anh chị đều cho tôi là một con điên. Bốn năm dùi mài, thích thú với khoa sư phạm, bất ngờ gặp và quen anh, tôi cứ nghĩ anh là người đồng cảm với tôi, nhưng khi thấy ánh mắt lúc tiễn lên tàu, tôi chợt thấy anh lại ném về phía tôi một cái nhìn đầy nỗi niềm và tuyệt vọng, cùng với sự bịn rịn của người thân trên sân ga. Tôi không ưa cảnh tượng đó, mong cho còi tàu mau rúc lên và lăn bánh thật nhanh để tránh những cảm giác lẫn lộn có thể sẽ khiến tôi bỏ cuộc giữa chừng bỡi những sự vây bủa định kiến khó hiểu.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

le_van_thien
Nhà văn Lê Văn Thiện thời còn trẻ

Lê Văn Thiện sinh ngày 10 tháng 5 năm 1947 tại thị trấn Giã, Khánh Hòa trong một gia đình nông dân nghèo. Sau khi cha chết vì làm lụng cực nhọc, Thiện phải bỏ học lúc mới xong chương trình trung học đệ nhất cấp tại trường Trung Học Võ Tánh, Nha Trang, vào lính vì không biết một nghề nào để làm lụng đỡ đần mẹ già và em gái. Anh có thời gian 2 năm phục vụ tại Tiểu Đoàn 1, Trung Đoàn 47, SĐ 22 Bộ Binh, đóng tại Phú Yên. Sau khi tốt nghiệp trường SQ Trừ Bị Thủ Đức, Thiện được thuyên chuyển về Trung Đoàn 14 Sư Đoàn 9, tham gia các trận đánh lớn nhỏ ở chiến trường Miền Tây Nam Bộ và Campuchia.

Truyện ngắn đầu tay, Ngoại Lệ, đăng trên Văn số 47 lúc mới 18 tuổi, ra ngày 1.12.1965 dưới tên Văn Lệ Thiên. Sau đó truyện của ông đăng đều đặn trên Văn, Bách Khoa, Trình Bày, Ý Thức…

Đến nay Lê Văn Thiện có 5 tác phẩm được phát hành, đều là truyện ngắn: Một cách buồn phiền, Sao không như ngày xưa, Chuyện đời, Mưa lạ, Quế.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

lang_que

Derrière chaque l’homme,
il y a un enfant”
Angel. V

Ông Xang gắng sức đạp liền mấy chục cái chiếc xe mới chịu nổ. Nó bật rung lên, ho lạch cạch như người bị hen suyễn, còn ông thì gần đứt hơi. Chỉ cần thêm mấy cái đạp nữa có thể ông sẽ khuỵu xuống. Ông đã già. Chiếc xe cũng già. Nó già gấp mấy lần con chó nhà ông đã rụng lông xơ xác, vảy tróc lên từng mảng ghẻ lở màu phân trâu. Ông thở hắt ra rồi tự nhủ “dù gì cũng phải cố đưa ông bạn già về làng một chuyến sau nhiều năm xa cách, như một bổn phận không thể cưỡng chống”.

Nhưng ông bạn Việt kiều hình như không nhìn thấy cảnh này, đang ngó nghiêng nhìn trời ngắm đất. Mãi đến khi chiếc xe hắng giọng ho khùng khục liên hồi thì ông mới quay lại hỏi “được chưa” rồi thản nhiên dạng chân ngồi lên sau yên cười hềnh hệch: “Ôi con ngựa già của chúa Trịnh. Con ngựa mới thật đáng yêu!”. Tiếng máy nổ át tiếng nói, ông Xang không nghe gì, chỉ có mảng khói đen khét lẹt phụt ra sau như cố lấy sức dướn tới một cách khó nhọc. Ông bạn Việt kiều cười hể hả: “Mấy chục năm về làng được đi xe ông như lý trưởng ngày xưa cỡi ngựa, ông hỉ?”. Ông Xang nghe tiếng được tiếng mất: “Chịu khó ngồi, nửa tiếng nữa tới làng”.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

cay_cau

Giờ thì là sao? Không sao cả. Vậy thì ông đang ở đâu? Trên tầng cao, rất cao; giống như một cái ổ chim trên chót núi cheo leo. Mình cũng đang ngồi trong ổ chim đó, trên cao tít mù mù, cách biệt với thế giới ùn ùn dưới kia… Ông già lẩm bẩm, đi tới đi lui trong gian phòng bày biện sang trọng vừa nhìn sững vào vách tường dựng đứng như một chiếc hộp diêm. Ông già tự hỏi rồi tự trả lời, rồi lại nhìn xuống sàn nhà, bất ngờ thấy lại gót chân nứt nẻ của mình, thấy những chiếc móng vêu u, sứt sẹo của mình… Và chợt nhớ quay quắt gian nhà mái âm dương năm gian, nền lót gạch tàu nham nhám ở tận đồng sâu. Nỗi nhớ cồn cào đến quặn thắt ruột gan, trào ra như chút khói trong bếp tro vùi vòng vèo quanh ông táo, không xa hơn để vón cục lại thành những ước ao bé nhỏ.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

L’art est une méditation de la vie, non de la mort.
(Jean Paul Sartre)

nguyen_vien
Nhà văn Nguyễn Viện

Hình như, chỉ sau khi Nguyễn Viện bị “đá đít”, văng ra khỏi tòa soạn một tờ báo không mấy tiếng tăm ở Sài Gòn (chỉ vì những tư tưởng và hành vi đứng hẳn phía bên lề rất trái) thì ông mới vùi mình trong căn phòng hẹp, hăng say viết, háo hức viết, viết đến dại khờ máu me tinh huyết từ thơ đến truyện ngắn, tiểu thuyết, với một thái độ không dạng chân, thỏa hiệp; không đánh đĩ ngòi bút. 15 tác phẩm lần lượt ra đời trong chừng ấy năm ngắn ngủi, chứng tỏ ông đã chọn lựa con đường đi “đúng” cho riêng ông. Những tác phẩm được xuất bản, hầu hết đều in “chui’ dưới tên nhà xuất bản Cửa và trên các trang mạng.

Việc làm này cũng dễ hiểu, bởi không một nhà xuất bản nào trong nước dám liều mạng in tác phẩm ông; thứ đến, khi phát hành liệu độc giả có chấp nhận cái bút pháp bông phèng hổ lổn trong mớ chữ nghĩa bị lật tung lên, như một viên đá cố ý ném vào bãi phân, văng tung tóe. Và, hơn hết liệu “bọn họ” có chịu để yên cho ông?
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

epidemic

Trong một đêm mưa gió tơi bời, lão Zalev trở về quê hương bản quán sau bao nhiêu năm lang bạt kỳ hồ. Lần ra đi với chiếc túi vải đựng mấy tấm áo quần nhàu rách, lần về cũng chiếc túi cũ năm xưa, nhưng quần áo thì lành lặn hơn, lại mang theo người một thứ mà lão hí hửng gọi “vật thiêng”, nó sẽ cứu thế gian này ra khỏi những cơn bão táp đau khổ, máu me, đói khát…

Chưa ai biết đó là cái thứ quái quỷ gì và có thật nó sẽ cứu loài người khốn khổ kia không, chỉ là do hắn nhắn với cho bọn đàn em từ lúc đặt mình trong chiếc xe trâu trên đường quay về cố xứ.

Bọn đàn em ấy, chúng đang đứng đợi bên này con sông rộng, nước chảy xiết. Trước mặt, trong đêm tối mờ đục, là mảng bè ghép bằng những cây vầu nhấp nhổm trên làn nước lạnh ngắt, sẽ dùng để đưa đàn anh qua sông.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

hoa_cuc_van_tho

1.
Trước ngày giỗ cha, chị Đông giở máy, thong thả gọi cho từng người: các em phải về trước một ngày để phụ với má, không được đứa nào vắng mặt. Tám cuộc gọi được phân đều chừng ấy từ không hơn kém Có lẽ không phải do chị tiếc tiền khi phải nói nhiều mà, chỉ vì ngắn gọn thì quyền uy được khẳng định một cách rõ ràng hơn? Và dù là gái đã xuất giá nhưng là chị cả nên cái sự quyền huynh thế phụ được chị thâu tóm và phát huy đến mức tối đa trong gia đình có tới tám cô con gái nắm bím tóc nhau, kẻ trước người sau lần lượt ra đời để reo vui, bổ sung thêm quân số cho bà Trưng bà Triệu. Còn tôi là đứa con trai duy nhất được chắt mót như anh dân nghiện ngửa cổ, dốc đít chai cho rớt vào họng giọt cuối cùng của bữa rượu tàn. Tuổi tôi chỉ nhỉnh hơn đứa con gái đầu chị Đông có sáu bảy năm. Đó cũng là lý do để đôi lúc chị giả tảng không coi tôi là đứa em út ét mà đối đãi ở hàng con cháu!
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

lam_anh
Nhà thơ Lâm Anh

Lâm Anh sinh năm 1942 ở Quảng Ngãi. Ông thuộc thế hệ chúng tôi nhưng cách tôi một khoảng năm tháng khá xa. Biết và đọc ông khá lờ mờ và không nhiều, khi ông còn là cán bộ ngành thông tin ở một huyện nhỏ quê nhà, trong nhóm Trước Mặt của Phan Nhự Thức. Mãi tới năm 2004, tình cờ gặp ông ở Đà Lạt và tình cờ được nghe ông đọc thơ của chính ông trong bữa rượu mới nhận ra: ông có nhiều con người trong một người. Ông la đà trong men rượu và thơ la đà trong ông giữa ngọn đồi đầy cỏ hoa và đêm xuống nhập nhòa. Thật bất ngờ: bất ngờ bởi chất thơ lạ, bởi giọng đọc lạ, gần như chất giọng ấy đã lột truồng tất cả tứ trong thơ, lột truồng chính ông, lột cả màn đêm để đắm chìm vào cõi khác, bồng bềnh mênh mông… tưởng chừng như ông đang trầm mình trong đáy hồ Xuân Hương vọng lên những tiếng chép miệng não nuột một kiếp người:

Như thể mày vừa ra khỏi núi
chống gậy bằng vai chống trên vai
đôi chân ngâm rượu lâu ngày ấy
chợt rã vào tao những hớp đầy…
Muốn thụi cho nhau đau mấy cú
cho rã tan thêm nỗi lục bình
nghĩ thương con nước không còn sức
ngầu bọt vào em ở cuối đường
Thôi tao về
nói sao cho hết
mặc mẹ mặt trời mọc ở đâu
chớ mở bàn tay ra hỏi thử
đã cầm bao nhiêu cõi nổi trôi
(Gặp Hạ Đình Thao).
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

bia_ky_vat_cho_em

Trước và sau thập niên 70, chiến tranh Việt Nam bùng phát dữ dội và đó cũng là hệ quả tất yếu khiến hàng hàng lớp lớp thanh niên, sinh viên học sinh đến tuổi phải từ giã sự nghiệp, sách vở, giảng đường để tham gia cuộc chiến với nhiều cách khác nhau. Đó cũng là thời gian xã hội Miền Nam có nhiều biến động nhất: chiến tranh lan rộng sâu tận thành phố, những cuộc biểu tình lớn nhỏ dưới nhiều chiêu bài, khuynh hướng hỗn tạp, đã ít nhiều làm cho thanh niên tỏ vẻ hoài nghi về những hoài bão, lựa chọn của mình. Và chính sự khủng hoảng chính trị, xã hội  dẫn tới một hiện tượng không thể phủ nhận: văn đàn Miền Nam xuất hiện những khuôn mặt trẻ đầy bất ngờ, mới mẻ, phần nào làm mới sinh khí văn chương vốn dĩ bị che mù bởi dòng văn học hiện sinh, bị lấn át bởi những đàn anh tên tuổi. Đó là những Phạm Thiên Thư, Nguyễn Tất Nhiên, Nguyễn Bắc Sơn, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Y Uyên, Vũ Hữu Định, Trần Thị Ngh… Công chúng, nhất là giới trẻ đã đón nhận họ như đón nhận một luồng gió mới, một sinh khí mới trong dòng văn học Miền Nam.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

lu_quynh
Nhà thơ Lữ Quỳnh

Tay với trời cao không thấu nổi
Tuổi già mất bạn cũng mồ côi

(LQ)

Rất có thể Lữ Quỳnh đã làm những câu thơ đầu tiên trước khi viết những trang văn. Nhưng rồi, văn của ông được ấn hành trước những tập thơ. Đối với Lữ Quỳnh, cái trước và cái sau, hình như không phải là dấu mốc để văn chương của ông khởi đi. Bởi văn ông viết, có rất nhiều trang, nhiều đoạn như thơ. Đó là nét đặc thù của một Lữ Quỳnh, chàng nghệ sĩ luôn tìm kiếm một nửa đã mất trong ông. Cái nửa ấy là người tình, người bạn, là góc phố, là cơn mưa, là tuyết trắng…là những gì ông đã đến với, và rồi chúng đã “bỏ rơi ông”, một mình, cô độc.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

thieu_nu_ngoi_chong_cam-dinh_cuong
Thiếu nữ ngồi chống cằm
Tranh Đinh Cường

1.
Ban đầu tôi nghĩ khu nhà trọ như một trại gia binh, sau nhớ lại thì nó giống một trại chăn nuôi gia súc. Bốn mươi căn phòng, mỗi căn rộng chưa tới hai chục mét vuông đôi mặt vào nhau. Ở giữa là dãy hành lang dài hun hút. Khu nhà trọ táp nham này chứa đủ các thành phần từ thợ thuyền đến công chức, và chẳng mấy khi họ đứng lâu, ngó mặt nhau nói chuyện thân thiện. Mới tờ mờ sáng mọi người đã vội vội vàng vàng dắt xe máy, xe đạp hoặc hộc tốc chạy ra bến xe buýt. Chiều tối mịt họ mới lác đác kéo nhau về, kẻ trước người sau, với sự mệt mỏi bám lủng lẳng trên mí mắt, trên những đôi chân bước chậm. Chính xác hơn, khu nhà trọ này giống cái tổ ong thu nhỏ. Một tổ ong trong mùa gió rét, mưa bão!
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

thieu_nu_dung_ben_song

Sau khi mãn tang chồng tôi ngỏ lời cầu hôn lần thứ hai với chị. Thay vì từ chối hay ư hừ, hay một cái tát như trời giáng mười sáu năm về trước, thì lần này chị quay mặt đi, hai vai rung lên như thể một thân cây bị lay lắt, vật vã đến nao lòng. Tôi bước ra khỏi cổng, bỏ mặc thân cây run rẩy, cong oặt chỉ mang theo cái nhìn sững sờ của chị. Cái nhìn đẹp và sáng như lưỡi dao nhọn.

Chị biết là tôi yêu chị đến cuồng dại và chị cũng yêu tôi. Nhưng để lấy tôi thì chị không thể. “Em nhỏ tuổi hơn chị”. “Em không cần”. “Mai mốt chị sẽ già trước em, em sẽ chán chị”. “Không đời nào”. Chị sẽ sàng với bộ mặt u buồn khiến chị càng đẹp rực rỡ trong mắt tôi, cuốn tôi chìm xuống tận đáy sông.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên
Tặng bạn bè tôi, một thời tan nát, chia lìa

adrian_ghenie_01
Painting by Adrian Ghenie

Từ nơi nào ấy rất xa xôi, như tiếng vọng khẽ:

– Định, mày mạnh giỏi chứ? Bây giờ mày thế nào rồi? Lâu lắm tao không gặp, nhớ lắm!

– Xin lỗi, giọng nói nghe rất quen.

– Ha, ha… đã quên thằng bạn này rồi sao? Đầu óc mày bắt đầu còm cõi từ hồi nào vậy? Tao cứ ngỡ tụi mình vẫn tiếp tục làm thơ dưới khung cửa sổ phòng Thủy đó mà.

– Hả. Nói sao? Thủy ngày xưa. Ngô, mày ở đâu? Tao tưởng.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

do_hong_ngoc
Bác sĩ, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc

Với hơn 30 tác phẩm đã xuất bản từ năm 1967 đến nay, gồm nhiều thể loại: Thơ, tuỳ bút, tạp văn, y học và cả Phật học… không biết nên xếp Đỗ Hồng Ngọc vào hàng ghế nào cho thật chuẩn. Nhà thơ, thầy thuốc, nhà nghiên cứu, nhà văn? Đối với ông, vị trí nào cũng chính xác. Bởi những gì ông viết, đã xuất bản và đến tay độc giả đều tròn đầy, khiến họ thích thú đến bất ngờ, vì ngoài cốt cách văn chương, những suy nghĩ của ông về các vấn đề xã hội, đời sống, không xa vời; nó gần gũi, quanh quẩn, ẩn núp đâu đó quanh ta mà ta chưa thể nhìn thấy; chỉ đợi khi ông viết lên, đọc lại, ta mới thấu lẽ, à lên một tiếng, vài ba tiếng, tùy theo tâm trạng mỗi người kèm với không gian, thời gian của người đọc: nó có đấy mà sao ta không thể nhìn thấy, ta không hề nghĩ ra được nhỉ? Những điều bình thường cũ rích, trong đời sống, qua ngòi bút của ông hoá ra quá đỗi mới lạ; nói theo ngôn ngữ Đỗ Hồng Ngọc là ngòi bút ông đã hoá giải, đã khải thị giúp ta từ những cách nhìn, nghĩ một cách hạn hẹp, quanh co cạnh ta thành rộng ra để ta “như thị”?
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

suong_tren_song_dakbla

Trên đoạn đường dài hơn ba trăm cây số, nẩy xóc, ngân ngất ổ gà ổ vịt khiến không mấy ai còn hứng thú để chuyện trò như lúc đầu hăm hở ngồi trên băng ghế nệm. Cách đây vài tiếng, khi vừa mới bước lên xe, đám hành khách ồn ào chuyện nói, chuyện kể. Mấy người đi buôn nói về giá cả lên xuống bất thường và chắc mẩm rằng mình sẽ bán được nhiều hàng với giá lời cao. Người phụ nữ đi xa nhà lâu ngày nói về sự nhớ nhung hai đứa con nhỏ, tự chị nói ra rằng chúng học rất giỏi, rất ngoan ngoãn. Sau những lời khen ấy, hẳn chị sẽ tưởng tượng rằng mình sẽ được chúng reo mừng đón ngay trước cổng. Vậy mà lúc này người đàn bà buôn đồ khô bỏ rớt những lời lẽ ba hoa về những con cá phơi trên bãi cát, những đêm trắng chờ chồng cỡi lưng sóng bão; ông cán bộ thương nghiệp mập ú, cổ ngấn mỡ bốc phét về công việc điều hành buôn bán trong cơ quan của ông ta, đang như chiếc bị vải lăn qua, lăn lại trên ghế theo nhịp xe nghiêng võng, thỉnh thoảng lại ngã hẳn lên vai người phụ nữ ngồi kế bên, khiến chị ta phải khó nhọc lắm mới đẩy được ông trở lại vị trí cũ. Ở hàng ghế bên kia, ngang với ông cán bộ là cậu thanh niên mang kiếng đen, giống như những tay thám tử. May mà cậu ta không dòm ngó, xoi mói ai, chỉ bông lơn khoe mẽ về bản thân với cô gái ngồi cạnh cười ngặt nghẽo mỗi khi anh ta pha trò. Còn lại là những người có tuổi và hai đứa bé. Họ yên lặng ngó trời nhìn đất, cây cối, nhà cửa… chạy vụt về phía sau,  đang suy nghĩ những gì không ai biết. Những người ngồi trong xe, bên cạnh nhau có cớ để giải bày chút tâm sự trên đoạn đường dài, có khi sẵn sàng thổ lộ tâm can với nhau.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

tran_hoai_thu_2
Nhà văn Trần Hoài Thư

Đôi khi, ta bất chợt nghe một câu hát, lòng bỗng dậy lên chút bùi ngùi, nhớ nhung về chốn cũ xa xôi. Đôi khi, ta bất chợt đọc một câu thơ, đầu óc mụ mị bỗng nhòe nhoẹt vết lăn trên đường. Và dường như thấp thoáng đâu đó, có những phút giây ta hối hả cùng bạn trong khói sóng mông lung và, những xao xác cô đơn đến vô cùng tận, một mình bên quán nhỏ dọc đường…

Thời trai trẻ, những tình cờ đến đi như chút gió cuối mùa hiu nhẹ buổi xế trưa, thì đâu có chi lạ lùng? Nay, đã qua tuổi “tri thiên mệnh” khá xa, lại vô cớ bồi hồi vì hình ảnh ẩn dụ trong một câu thơ; những lướt thướt âm thanh trong một bài hát, đã cảm thấy chạnh lòng, huống chi lòng đang chùng xuống, mắt mênh mông một vùng khói trắng?

Có phải vậy không?
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

vu_huu_dinh2
Nhà thơ Vũ Hữu Định (1942-1981)

Đọc thơ Vũ Hữu Định nhiều đâm “ghiền” như “ghiền” hương thơm của người trinh nữ. Chỉ tiếc là chưa một lần gặp mặt anh qua những bức thư hẹn hò. Chúng tôi như hai con thú hoang ở hai đầu cánh rừng ngút ngàn lùm bụi, khói sương, suối sâu và bờ vực. Chúng tôi đuổi bắt nhau như bắt lấy chính bóng mình. Đó là những năm tháng kinh hoàng và mệt nhoài khoảng đầu thập niên 70. Tôi ngồi chờ anh ở nhà Hạc Thành Hoa (bên bờ kênh Cái Sơn, Sa Đéc) thì anh đã lên Sài Gòn. Phóng vội xe đò lên Sài Gòn thì hình như anh “nhìn thấy cơm sôi chợt nhớ nhà” và leo xe đò về Đà Nẵng…
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

Le champ couvert de morts sur qui tombait la nuit.
Il lui sembla dans l’ombre entendre un faible bruit.

(Victor Hugo, Après la bataille)

chien_truong

Chuyến xe cuối ngày xuống khách ở ngả ba đường dẫn vào thị trấn. Lẫn trong đám người nhớn nhác là người đàn ông gày gò, vai lệch, hai hốc mắt trũng sâu, ngơ ngác đưa mắt đảo một vòng rồi khoát chiếc túi xách lên vai, lầm lũi bước trên con đường đất đỏ dưới cơn mưa lất phất.

Đứng trên đầu dốc, người đàn ông nhìn sững màn khói lạnh đùn lên thành dãi trắng đục lềnh quấn quanh chóp núi cao, những ngọn đồi lô nhô dưới xa kia và sự di động chậm chạp của những bóng người li ti bên những đường ranh đất đỏ giữa các vườn cà phê. Trong thị trấn, các hàng quán bắt đầu kéo hẹp cửa, sáng ánh đèn từ bên trong và mái hiên dội xuống, lẫn trong bóng chiều ngập sương.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

khuat_dau
Nhà văn Khuất Đẩu

Khuất Đẩu, bút danh mới toanh và lạ hoắc lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí văn nghệ, trên các trang Webs nên có thể tạm gọi là nhà văn trẻ. Nhưng đọc qua từng trang viết lại thấy giọng văn rất già dặn. Ông là ai, ở đâu? Không ai biết. Có thể ông khởi viết từ thời Mai, Thế Kỷ Hai Mươi, Hiện Đại,Văn Nghệ, Sáng Tạo… Cũng có thể mới đây, sau những năm tháng tích luỹ kinh nghiệm sống. Nhưng chắc chắn ông là người có tuổi, từng sống qua thời kỳ u ám kinh hoàng. Vì: đọc qua từng trang viết của ông, chúng ta cảm thấy như rất gần. Gần bởi ông kéo xích thời gian xa lắc đến với người đọc, bởi ông dựng lại bối cảnh khủng khiếp thời đấu tố ở vùng “tự do” (*) liên khu V một thời chúng ta đã  từng sống trong không khí sặc sụa sỉ vả lăng nhục, sặc sụa máu và nước mắt, hay ít ra cũng đã từng nghe nói đến.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

pham_ngoc_lu
Nhà thơ Phạm Ngọc Lư

Trong tập tiểu luận Vũ Trụ Thơ, khi viết về Nguyễn Du, nhà phê bình Đặng Tiến đã khoa lên một kiểu chữ nghĩa mới toanh mà gần gũi, mượt tươi mà trần trụi, khiến nhiều người khi đọc, vừa nhăn mặt thích thú vừa nhếch môi ngạc nhiên: “Yêu một tác phẩm nghệ thuật giống như yêu một người đàn bà ở điểm là mỗi lần yêu, chúng ta khám phá ở người tình một trinh tiết mới. Yêu một tác phẩm là sáng tạo một trinh tiết mới cho tác phẩm” (1). Dọi lại, trong cuộc đời mỗi chúng ta, khi đọc những tác phẩm nghệ thuật, đã không ít lần lòng ta bỗng rung lên với hàng hàng chữ nghĩa bay lượn trên thảm cỏ xanh rờn; khép trang sách, ta như đang sống cùng những nhân vật ấy, những “trinh tiết mới” ấy. Nhưng cũng không ít tác phẩm, mới giở năm bảy trang đã nghe thấp trhoáng mùi khoai lang sùng, cơm thiu toè khắp các trang giấy trắng tinh. Không phải đẻ non, mà chửa trâu, đẻ quá tháng, bởi anh ta không phải làm nghệ thuật; anh ta dùng nghệ thuật để đẩy nó đi mọt hướng khác!
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

nong_dan2

Gà vừa cất tiếng gáy sang canh, Dự vội vã bật dậy nhóm bếp nấu ấm nước pha trà, loại trà nát như cám được phân phối theo tem phiếu trên cửa hàng mậu dịch hợp tác xã. Uống loại nước chan chát không mùi vị khiến anh có cảm giác như lúc ở trại Thập hái lá cây rừng sao vàng thay trà. Dẫu sao trà cám vẫn hơn nước đun sôi và nước đun sôi vẫn hơn loại lá rừng đắng chát. Với lại, thời buổi này không thể tìm đâu ra thứ trà ướp ngâu, ướp sen… mà có thì cũng không có tiền mua. Cái gì cũng có thể trở thành thói quen, anh thầm nghĩ và uống cạn bình trà trước khi đứng dậy ra tháo cổng chuồng.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

nguyen_vien
Nhà văn Nguyễn Viện (ảnh Trần Tiến Dũng)

Truyện Kiều của Nguyễn Du, sau khi được khắc bản in, lập tức có sức lan toả rộng rãi trong quần chúng. Tính phổ quát của truyện Kiều hơn hẳn những tác phẩm trước và sau nó để, từ tầng lớp bình dân cho chí các trí thức khoa bảng đều có các đánh giá khác nhau qua mỗi thời đại. Bởi ở đó, từ những nhân vật trong truyện, mỗi người có thể tìm ra những vấn đề tương đồng, những cá tính từng nhân vật như một phiên bản luôn có mặt như những thực thể sinh động trong mọi thời đại.

Đó cũng là lý do tại sao, kể từ khi có chữ viết riêng (quốc ngữ), có báo chí, truyện Kiều được mang ra mổ xẻ khá kỹ, với nhiều luồng trái ngược nhau. Dưới con mắt các nhà nho luôn ôm Luận Ngữ, Đại học… làm sách gối đầu như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng thì truyện Kiều chỉ là loại dâm thư không hơn kém: “Nói cho đúng ra Truyện Kiều chỉ là một dâm thư, rõ ràng không có ích gì mà có hại”.  Trong khi đó, những Phạm Quỳnh, Chu Mạnh Trinh thì lại hết lòng ca ngợi truyện Kiều, xem Kiều như một loại “ngọc tỉ” truyền quốc: “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn”- (Phạm Quỳnh).
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

thieu_nu_dung_ben_song

“Tôi yêu anh yêu biết nhường nào
như quê hương yêu anh yêu mê mệt
mà anh dửng dưng, nguội lạnh.
Tôi buồn như những đám dương vùng Đại Lãnh.
Tôi khóc như mưa chiều về với núi Vọng Phu”.

Trước đây, nhiều người vẫn nghĩ rằng, Cảnh Cửu chỉ có một truyện ngắn duy nhất là Thư từ Tuy Hòa, đăng trên tạp chí Văn số 45 chủ đề Françoise Sagan ra ngày 1.11.1965. Nhưng thật ra không phải vậy. Hơn một năm sau, truyện ngắn thứ hai Vòng đai học vấn (1) xuất hiện trên Văn số 72, ngày 1.11.1966; rồi 5 tháng sau là truyện Khởi hành vào mùa xuân tương lai [1] Văn số 79, ngày 1.4.1967; đây cũng chính là truyện cuối cùng ký tên Cảnh Cửu.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

tu_the_mong
Từ Thế Mộng (1937-2007)

Từ Láng Me, Lê Văn Trung gọi điện, e-mail báo tin Từ Thế Mộng (Tư Đình) qua đời. Dù đã biết trước, nhưng vẫn cứ đột ngột, vẫn chút sững sờ, thảng thốt. Một người bạn văn nữa lại từ biệt chúng ta để bay vào miền vĩnh hằng, vào cõi vô hình tướng, có và không.

Và một chút kỷ niệm nhỏ ùa đến: biết và quen anh khi tôi, Nguyễn Phương Loan và HĐHQ làm tờ Sóng ở Tuy Hoà. Anh đến với chúng tôi không phải chỉ bằng những bài thơ góp sức (mà đều đều gặp nhau mỗi khi có phép, lúc đó anh là sĩ quan Trung đoàn 47 BB đóng tại Phú Yên) cùng với Y Uyên, Đỗ Tiến Đức, Lôi Tam, Phương Tấn, Luân Hoán, Cung Tích Biền… Cuối năm 1970, từ Cần Thơ ghé Phan Rí thăm anh em trước khi về quê ăn Tết. Gặp đủ cả: Tư Đình, Phạm Cao Hoàng, Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Lê Tuân. Lại rủ nhau xuống tận Liên Hương tìm Tô Duy Thạch. Tư Đình đèo tôi bằng chiếc 67 màu đỏ, chỉ cho tôi cầu sông Luỹ trong thơ NBS, chỉ cho tôi chân núi Tà Dôn, nơi Y Uyên ngã xuống, chỉ ngã ba Duồn với công nương Bạch trong thơ Phạm Cao Hoàng. Những đêm thức trắng với rượu khan khoa ngôn vá trời lấp biển bằng chữ nghĩa. Rồi chia tay. Sau đó chiến tranh ngày càng khốc liệt. Thư từ thưa thớt. Đến ngày chia lìa tan tác, ăn bo bo, củ mì, cầm tem phiếu chen lấn để mua kỳ được lạng thịt bầy nhầy về cho con đã hết hơi sức, bảo sao còn nhớ đến ai?
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

vo_hong_3
Nhà văn Võ Hồng (1921-2013)

Sau khi Thư Quán Bản Thảo (TQBT) 20 chủ đề nhà thơ Nguyễn Bắc Sơn phát hành, các anh trong nước đề nghị TQBT làm một số chủ đề:  nhà văn Võ Hồng cho số 21. Ngoài nước, hai anh bạn văn một thời với chúng tôi (Phạm Văn Nhàn và Trần Hoài Thư) gọi điện thoại về cho tôi, giục tôi phải về Nha Trang gặp những bạn bè cũ, để bắt tay thực hiện chủ đề về Võ Hồng theo yêu cầu.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

nong_dan_mat_dat

1.
Bốn Lợt đang là nhân dân, đang là hột cát nhỏ, rất nhỏ trong hòn đá tảng, là tế bào tí xíu trong thân cây mấy ngàn năm tuổi. Ngày xưa ông lú lấp đâu đó giữa hàng đống nông dân. Bây giờ cái mác nông dân bị bóc ra, dán tem mới, tem nhân dân.

Và lúc này nhân dân Bốn Lợt đang đứng trên bờ ruộng, bên này con mương nước, trên đôi chân run run, cảm thấy ngực mình xẹp xuống, hai lá phổi tan vỡ từng mảnh vụn, bay lên không trung, mắt đục xám, xương sườn, tay chân cũng tan ra từng mảnh. Cây gậy củ tre láng bóng chịu tất cả sức nặng bắt đầu tan ra đó, lún xuống, cong oằn như thể những cây lúa thì con gái đang dập gãy. Những thửa ruộng chìm sâu bên dưới quả núi cát khổng lồ ùn ùn bay tới. Cây lúa thì con gái bị hãm hiếp. Cánh đồng mơn mởn xanh cũng bị hãm hiếp. Máu từ háng, từ nách, từ rún đến cả miệng, mắt mũi ròng ròng chảy. Chảy lênh láng, vón cục thành đống cát cao nghệu. Đống cát cao kia dính máu đỏ bầm, chính là thằng hãm hiếp cây lúa, cánh đồng. Tiếng lẹp nhẹp nhấn xuống, đẩy mạnh, nhấn lút, đẩy mạnh sâu hơn nữa, phát ra âm thanh lóc chóc, lóc chóc… Tiếng lóc chóc dãy dụa quẫy đạp. Nước tứa ra. Màu nước máu đen từ háng, từ rún phụt ra, phụt thành vòi cao. Những mái tóc xanh, những thân hình non nớt chìm nghỉm trong cái màu nước đen, dưới sức đè của thằng khốn khiếp.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

nguyen_le_uyen-quang_tri_1
Cửa bắc cổ thành Quảng Trị

Hình như có một sự thôi thúc vô hình buộc tôi phải tạo một chuyến đi. Đi bất cứ nơi nào. Miễn sao tạm xa vài ngày xứ tôi đang sống, tạm tránh không khí ngột ngạt từ các môi trường chung quanh.

Ban đầu định đi về Tây nguyên theo hướng đường 7 để nhìn lại em Pleiku má đỏ môi hồng, để bước qua vùng Đắc Tô, Tân Cảnh nơi những bạn bè tôi đã vĩnh viễn nằm xuống. Nhưng khi đến nhà ga, không hiểu sao vé đi Đông Hà lại nằm gọn trong tay. Đông Hà của Quảng Trị, cầu Hiền Lương, Cổ thành, của nhà thờ La Vang, dòng sông Mỹ Chánh, cầu Á Tử… nơi cách đây 37 năm bạn bè tôi đã đổ biết bao xương máu trên tuyến lửa vùng đất địa đầu.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

duong_nghiem_mau-nguyen_le_uyen
Dương Nghiễm Mậu (trái) và tác giả

Báo chí miền Nam viết nhiều, nói nhiều về Dương Nghiễm Mậu và đều dành cho ông những tình cảm đặc biệt và một vị trí xứng đáng trong dòng văn học Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1954 trở lại đây (ngoại trừ thằng Gù bên hông nhà thờ Đức Bà).

Với 21 tác phẩm, gồm truyện ngắn, truyện dài và những đoản văn, bút ký… người đọc đã nhìn thấy trọn vẹn thái độ và trách nhiệm của ông với ngòi bút của chính mình trước người đọc, xã hội và cả một khúc lịch sử ngắn ngủi bị xé toạc, tơi tả.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

ngoi_ben_hon_non_bo

Tiếng còi xe toe toe ngoài ngõ. Âm thanh nửa như reo nửa ngập ngừng.

Ở cái xóm nhỏ này hiếm khi nghe tiếng còi xe, hiếm khi có chiếc xe nào trờ tới, can dự chi tới mình. Nghĩ vậy, ông tiếp tục cắt tỉa cây sanh bám ngang trên mặt đá hòn non bộ góc sân. Cây sanh ấy là chút kỷ niệm nhỏ lúc ông làm tổ trưởng tổ cộ bò cho hợp tác xã. Lúc đội của ông kéo lúa nhập lên tổng kho, trong khi chờ đợi giấy tờ, biên bản, ông tha thẩn ra phía sau hàng rào và nhìn thấy cây sanh nằm lăn lóc bên bãi rác. Cây sanh bám trên cục đá vôi, ngã soài theo thế bạt phong. Ông thấy tiếc, thấy đẹp và đưa nó lên thùng cộ mang về. Mang về và đặt trong bể nước có hòn giả sơn từ thời ông nội để lại. Một hòn đá chết và một thân cây sống đu bám nhau tiếp tục sống như thể ai đó mang một hòn núi nhỏ đặt vào bể nước!
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

hot_toc_2

Ba Xanh đấm tay xuống bàn đánh rầm, trợn mắt:

– Nói rồi, nhứt định tao không gả mày về nhà đó.

Cô Mai tựa bậu cửa, khóc thút thít, không có phản ứng nào rõ rệt. Ba Xanh liếc nhìn cô con gái, vờ đưa tay lên quai ấm như thể chuẩn bị rót nước ra chén, hoặc sắp lia chiếc ấm trà về phía cô con gái cứng đầu, lú lẫn trong thứ tình yêu không do ông lựa chọn.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

Từ tấm bé, anh chưa bao giờ được ở trong căn phòng rộng rãi, tiện nghi như thế này. Chiếc giường đôi phủ tấm trải trắng tinh, phía dưới là chiếc nệm mút lò xo. Gối hoa đầu giường. Dưới đuôi tấm màn cuộn tròn như chiếc gối ôm. Anh để nguyên áo quần nằm lên. Nằm lên và nhún. Cảm giác êm ái như thể tấm thân anh là sinh vật bé nhỏ bám cánh diều chao lượn trên không. Nhún một hồi, anh nằm im, ngó qua phía hông vách tường. Chiếc tủ đứng bóng đến độ soi thấy cả bộ mặt đen sì của mình. Bộ bàn thấp có hai ghế đẩu hai bên với ấm chén, phích nước. Sát cạnh là chiếc ti vi đặt trên chiếc tủ con kèm theo máy điện thoại màu trắng. Ngó lên cao chút nữa, đụng trần là máy điều hoà nhỏ, thở êm như tiếng thở của vợ con anh trong giấc ngủ sâu. Anh nằm yên lắng nghe và nằm yên nhìn ngó. Anh mở miệng cười với riêng mình, nụ cười xếch ngược có những cọng râu lởm chởm bên trên móc lên.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

Thông tin về việc bà Sáu Linh bị ngã từ thềm nhà xuống sân lan nhanh như vệt dầu trên mặt nước. Đầu trên, xóm dưới ai cũng hay. Mọi người hớt hãi, ùn ùn kéo tới đông nghìn nghịt. Người sau vin vai người trước hỏi: Bị làm sao không? Nghe nói té cái đùng. Té từ hiên xuống sân. Té kiểu đó thì còn gì thân!… Tiếng ai đó trong bọn rên lên: Thiệt vô phúc.

Vòng trong vòng ngoài lèn cứng. Họ ngồi trên bờ sân, níu hàng rào bông bụt, đứng lố nhố ngoài truông nhóng vào, cố sao cho cặp mắt mình được chạm tới thân thể bà Sáu Linh, nhìn thật rõ ràng sự thể bà ngã bổ nhào. Nhưng chỉ chừng đó, không ai biết được gì thêm, bèn quay ra bàn tán:

-Thằng Quảng mới lạ. Làm lớn thế, lắm tiền nhiều của, quyền lực cùng mình không nuôi nổi mẹ mà lại đổ lên vai thằng què.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

“Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh, phía sau có lửa, phía trước có máu của mình”
(Y Uyên, Mùa Xuân Qua Đèo)

Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số đầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên một tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một cái nhan rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé:“Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại.
Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, bởi thực tế ấy là một sự thực…” (SĐD).
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

“Mả mẹ mày… làm ăn như củ kít”. Cây thước thợ gõ xộc lên gờ tường mới xây. Lớp gạch phía trên ngã bổ xuống, vang thành tiếng động lộc cộc khô khốc. Cây thước quay ngang qua phía đầu Tỏ. Tiếng “cốc” nhỏ, rất nhỏ như tiếng con chim gõ kiến gõ vào cành cây khô. Tỏ xoa xoa chỗ đau, đưa chiếc bay lên và kịp hạ xuống. Chiếc bay hạ xuống để nghe tiếp câu chửi: “Đ. má… đầu mày chứa toàn bùn thúi và phân trâu”. Tỏ cúi xuống mảng tường vênh, đè chiếc bay lên phân gạch nhớp nháp vữa. Cây thước thợ di chuyển qua phía bờ tường bên kia, nơi toán thợ đang gác tấm lanto.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên


Nhà văn Võ Hồng (Nguồn: http://vietsciences.free.fr/)

Nửa thế kỷ cầm bút, Võ Hồng viết trên 30 tập truyện ngắn, truyện dài, thơ… không kể đến một số bài báo có tính cách nghiên cứu… Suốt chừng ấy năm với chừng ấy đầu sách, người ta biết nhiều đến ông, báo chí viết nhiều về ông, bạn đọc tìm đến ông như người thân yêu, bởi nhân cách của ông trong cuộc sống và trên những trang giấy. Có những độc giả, sau khi đọc truyện ông bỗng nhớ đến da diết về chốn quê hương cỏ lá, có người “dám cả gan” vào thư viện xé vài trang truyện (ông mô tả một làng quê với viên cốm đầu năm mới) mang về để thấy quê hương thật gần gũi bên mình, để tận hưởng hương vị ngày tết cổ truyền dân tộc như thể mình đang sống trên mảnh đất còn đầy khốn khó này (trường hợp một nữ độc giả ở Úc khoảng năm 87-88). Và có lẽ ông cũng là nhà văn duy nhất sau năm 1975 được nhiều độc giả mến mộ, thư từ, thăm viếng; được các thế hệ sau luôn gọi ông bằng Thầy mỗi khi tiếp xúc. Nhân cách sống và viết của Võ Hồng làm cho độc giả cảm thấy luôn được gần gũi với ông, sách vở của ông để ông trở thành nhà văn của tất cả mọi người. Trong tận cùng sâu thẳm suy nghĩ của độc giả mọi lứa tuổi, ông là người ông, người bác, người chú, người cha, người anh, người thầy đáng kính, vì trải qua bao cuộc bể dâu, nhân cách ông vẫn giữ nguyên vẹn sự kính trọng đó.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

Truông tre buổi xế trưa gió hiu nhẹ như chiếc quạt to phẩy mát cho các bà ngồi túm lại hóng mát, làm những chuyện  vặt. Nhưng hơn hết là cái cớ để dòm ngó vào đời tư kẻ khác như một trò giải trí không mất tiền.

Đám phụ nữ đó trên dưới bốn mươi đâu chừng bảy tám người. Trước, họ là những nông dân rặt. Nay thì cái “mác” nông dân của họ đã thực sự lùi sâu vào quá khứ. Họ đã được tách bỏ bao nỗi nhọc nhằn ra khỏi cuộc đời. Những thửa ruộng sình không còn chỗ gieo sạ cây lúa, không nơi  đào ao nuôi tôm cá mà là những nhà máy sừng sững cao ngất, đè tất cả quá khứ khốn khổ bên dưới những ống tròn xịt khói nhuộm đen cả xóm làng. Những cột khói ấy đang từ từ giải phóng họ. Và những con người ấy đang trở thành những kẻ nhàn hạ ngay chính trên mẩu ruộng nhỏ giờ nhô cao hơn nền đình làng.

Món tiền được đền bù là khúc rẽ cuộc đời của làng Nam Thổ, nằm kẹp giữa khúc sông rộng và quốc lộ chạy xuôi theo hướng bắc-nam.

(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

Trước năm 75, tôi đã đọc Lữ Quỳnh với những Cát vàng, Sông sương mù, Vườn trái đắng, cùng một số bài viết đăng rải rác trên các báo văn nghệ Sài Gòn. Đọc và chỉ biết có vậy, chưa hề gặp nhau lần nào, mặc dù cùng chung trên tờ Ý Thức.

Cách đây 2 năm, Lữ Quỳnh bất ngờ về ăn tết với chúng tôi. Vậy là đã “kiến kỳ hình”. Với giọng nói nhỏ nhẹ, chừng mực của anh, chúng tôi nói chuyện văn chương, nhắc lại chuyện làm báo văn nghệ thời trước, chuyện bạn bè bên này, bên kia, những hoang tưởng và thỏa hiệp…
(more…)