Đỗ Trường
Nếu buộc phải chọn hai gương mặt tiểu biểu nhất cho thơ văn chiến tranh của nền Văn học miền Nam, thì có lẽ, tôi nghĩ ngay đến nhà thơ Tô Thùy Yên và nhà văn Phan Nhật Nam. Tuy khác nhau về hoàn cảnh, xuất thân, song hai bác này có những nét khá tương đồng, kể từ khi mặc áo lính, cho đến những năm tháng tù đày (dài lê thê) sau chiến tranh. Nhìn lại văn học sử Việt Nam có ba người lính cầm bút tài năng: Cao Xuân Huy, Nguyễn Bắc Sơn, và Phan Nhật Nam đều có người cha ở bên kia của chiến tuyến. Tuy nhiên, cũng như Cao Xuân Huy, nhà văn Phan Nhật Nam đã phân định trách nhiệm rạch ròi của người lính, không hề có sự mâu thuẫn nội tâm, do dự trên đầu súng và cây viết như Nguyễn Bắc Sơn. Có thể nói, nếu không có cuộc chiến này, thì chưa chắc chúng ta đã có một Phan Nhật Nam nhà văn của ngày hôm nay. Thật vậy, chính chiến trường đạn bom, khói lửa, chết chóc và tù đày đã đưa ông đến với những trang văn. Và chỉ có đối diện với những trang giấy, Phan Nhật Nam mới giải tỏa được tâm lý cũng như cứu rỗi linh hồn người lính trận. Món nợ với đồng đội với đất nước, cùng cái trớ trêu của cuộc chiến này, ngay từ những ngày đầu cầm bút cho đến nay luôn ám ảnh và xuyên suốt sự nghiệp sáng tạo của Phan Nhật Nam. Do vậy, nếu đọc một cách có hệ thống, ta có thể nhận thấy những đặc điểm nổi bật trong văn thơ, cũng như con người Phan Nhật Nam: Chiến tranh đưa đến tan vỡ tâm hồn, và lẽ sống của người lính. Sự tàn khốc của cuộc chiến ấy dưới ngòi bút sắc sảo của Phan Nhật Nam hiện lên một cách trung thực, sinh động. Và không chỉ trên chiến trường, mà trong tăm tối ngục tù cũng vậy, ta luôn thấy sự giải thoát. Thật vậy, lời dự báo, hay sự phản kháng là con đường giải thoát của ông đôi khi có tính tiêu cực, nhưng nó bật lên cái chí khí, tính nhân đạo cao cả. Chính bởi những đặc điểm này, đã làm nên tên tuổi nhà văn thật vạm vỡ Phan Nhật Nam.
(more…)