Lý Bạch và Bạch Cư Dị
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch
LÝ BẠCH
THU TỨ
李白
秋思
燕支黃葉落,
妾望自登臺。
海上碧雲斷,
單于秋色來。
胡兵沙塞合,
漢使玉關回。
征客無歸日,
空悲蕙草摧。
Phiên âm:
Lý Bạch
Thu Tứ
Yên Chi hoàng diệp lạc,
Thiếp vọng tự đăng đài.
Hải thượng bích vân đoạn,
Thiền Vu thu sắc lai.
Hồ binh sa tái hợp,
Hán sứ Ngọc Quan hồi.
Chinh khách vô quy nhật,
Không bi huệ thảo tồi.
Dịch nghĩa:
Ở Yên Chi lá vàng rơi
Thiếp tự lên đài cao ngóng nhìn
Trên vùng Thanh Hải mây biếc đứt khúc
Miền Thiền Vu vẻ thu đã trở lại
Quân Hồ kéo đến đầy trước ải cát
Sứ nhà Hán từ Ngọc Môn quan trở về
Lính chiến chưa biết ngày trở về
Thương cho cỏ huệ úa tàn
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch:
Yên Chi lá vàng rụng
Đài cao em trông vời
Thanh Hải mây xanh lủng
Thiền Vu thu chớm rồi
Giặc Hồ tràn ải cát
Sứ Hán về lại thôi
Đời lính bao giờ gặp
Huệ úa tàn than ôi!
BẠCH CƯ DỊ
THU TỨ
白居易
秋思
夕照紅于燒,
晴空碧勝藍。
獸形雲不一,
弓勢月初三。
雁思來天北,
砧愁滿水南。
蕭條秋氣味,
未老已深諳
Phiên âm:
Bạch Cư Dị
Thu Tứ
Tịch dương hồng vu thiếu
Tình không bích thắng lam
Thú hình vân bất nhất
Cung thế nguyệt sơ tam
Nhạn tứ lai thiên bắc
Châm sầu mãn thủy nam
Tiêu điều thu khí vị
Vị lão dĩ thâm an
Dịch nghĩa:
Nắng chiều đỏ rực hơn lửa nung
Bầu trời tạnh ráo xanh biếc hơn màu lam
Mây có dạng thú vật không xác định
Trăng mùng ba hình vành cung
Chim nhạn nhớ về trời bắc
Tiếng chày đá buồn vang sông nam
Khí vị mùa thu thật não nùng
Tuy chưa già mà đã từng trải nhiều
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch:
Nắng hồng chiều rực lửa
Trời xanh biếc lắng im
Mây giăng hình thú lạ
Trăng mùng ba lưỡi liềm
Nhạn nhớ trời phương Bắc
Chày vang sông phương Nam
Nhan sắc thu xơ xác
Thân chưa già sầu thêm
30.09.2014
Nguyễn Lương Vỵ.
Nguồn: Dịch giả gửi