Archive for the ‘Nguyễn Lương Vỵ’ Category

Nguyễn Du
Trích trong Thanh Hiên Thi Tập [清軒詩集]
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch thơ Việt

mai_no_dem_xuan

1. 瓊海元宵

元夜空庭月滿天,
依依不改舊嬋娟。
一天春興誰家落,
萬里瓊州此夜圓。
鴻嶺無家兄弟散,
白頭多恨歲時遷。
窮途憐汝遙相見,
海角天涯三十年。

Phiên âm:
QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU

Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên,
Y y bất cải cựu thuyền quyên.
Nhất thiên xuân hứng, thuỳ gia lạc,
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên.
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán,
Bạch đầu đa hận tuế thì thiên.
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến,
Hải giác thiên nhai tam thập niên.
(more…)

Cao Bá Quát
Nguyễn Lương Vỵ giới thiệu và chuyển dịch thơ Việt

cao_ba_quat
Cao Bá Quát (1809-1853)

I. Giới thiệu:

Cao Bá Quát (高伯适; 1809?-1855), tự Chu Thần (周臣), quê quán Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Năm 1853, Cao Bá Quát đã trở thành một trong những người lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, chết giữa trận tiền Quốc Oai năm 1855. Vua Tự Đức đã ra lệnh thu hồi và tiêu hủy những tác phẩm văn chương của ông. Tuy nhiên, Cao Bá Quát được dân chúng kính ngưỡng về nhân cách, tài hoa, khí phách và tinh thần yêu nước thương dân của ông nên đã cất giấu được khá nhiều tác phẩm của nhà thơ. Tác phẩm của Cao Bá Quát còn được lưu truyền đến nay là 1353 bài thơ, 21 bài văn xuôi, một số bài ca trù và khá nhiều câu đối.
(more…)

Trần Nhân Tông
Nguyễn Lương Vỵ chuyển dịch thơ Việt

tran_nhan_tong-dinh_cuong
Vua Trần Nhân Tông
dinhcuong

I. LỜI GIỚI THIỆU:

Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm.

Trần Nhân Tông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông có vai trò lãnh đạo quan trọng trong Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 2 và lần 3.

Trần Nhân Tông cũng là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu Đà Hoàng Giác Điều Ngự. (Tham khảo từ trang Web. Vikipedia.org VN.)

“… Theo sử sách còn ghi được, Trần Nhân Tông là tác giả các tập thơ sau đây: Trần Nhân Tông Thi Tập, Đại Hương Hải Ấn Thi Tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ. Tuy vậy, sau bao nhiêu phen dâu bể của chiến tranh, loạn lạc, số tác phẩm trên đều đã mất. Hiện thơ ông chỉ còn giữ được 31 bài, hai cặp câu thơ lẻ, một bài minh và một bài tán, chép trong các tuyển tập. So với nhiều nhà thơ khác thời Lý – Trần, số lượng ấy kể cũng đã không phải là nhỏ.” (Trích từ bài viết của Nguyễn Huệ Chi và Trần Thị Băng Thanh, ngày 27.08.2012,“Sự thống nhất giữa hoàng đế, thi nhân và thiền gia trong một nhân cách – Trần Nhân Tông” trên trang trannhantong.net)
(more…)

Nguyễn Trãi
Nguyễn Lương Vỵ chuyển dịch thơ Việt

trang_thu

1.
秋 夜 與 黃 江 阮 若 水 同 賦

紅葉堆庭竹擁門,
滿階明月過黃昏。
九霄清露三更濕,
四壁寒蛩徹夜喧。
天籟語秋驚草木,
玉繩低漢轉乾坤。
高齋獨坐渾無寐,
好把新詩向志論。

Phiên Âm:

THU DẠ DỮ HOÀNG GIANG NGUYỄN NHƯỢC THỦY ĐỒNG PHÚ

Hồng diệp đôi đình trúc ủng môn,
Mãn giai minh nguyệt quá hoàng hôn.
Cửu tiêu thanh lộ tam canh thấp,
Tứ bích hàn cung triệt dạ huyên.
Thiên lại ngữ thu kinh thảo mộc,
Ngọc Thằng đê Hán chuyển càn khôn.
Cao trai độc toạ hồn vô mị,
Hảo bả tân thi hướng chí luân.

Dịch Nghĩa:

ĐÊM THU CÙNG HOÀNG GIANG NGUYỄN NHƯỢC THỦY LÀM THƠ

Đống lá đỏ đầy sân, cây trúc ôm cửa,
Trăng sáng rãi đầy thềm, buổi chiều đã đi qua rồi.
Sương từ chín tầng mây, thấm ướt ba canh,
Tiếng dế kêu lạnh suốt đêm trong bốn vách tường.
Tiếng trời [hình như muốn nói rằng] mùa thu đến làm kinh động cây cỏ,
Sao Ngọc Thằng xuống thấp gần sông Ngân Hà, chuyển động trời đất.
Một mình ngồi đối bóng trên phòng cao, không ngủ được,
[Tốt nhất là] thử xem bài thơ mới làm, [để] luận bàn đến chí hướng của mình.

Chuyển Dịch Thơ Việt:

ĐÊM THU CÙNG HOÀNG GIANG NGUYỄN NHƯỢC THỦY LÀM THƠ

Trúc ôm cửa, lá đỏ đầy sân
Chiều đi rồi, thềm trăng sáng dần
Sương tỏa chín tầng, ba canh ướt
Dế rân bốn vách, suốt đêm hàn
Thu đến, tiếng trời rền cây cỏ
Sông Ngân, sao Ngọc chuyển không gian
Phòng cao đối bóng, hồn thao thức
Thơ mới làm xong, chí thử bàn?!
(more…)

Trần Nhân Tông
Nguyễn Lương Vỵ chuyển dịch thơ Việt

tuong_tran_nhan_tong

1.
題 普 明 寺 水 榭

薰盡千頭滿座香,
水流初起不多涼。
老榕影裡僧關閉,
第一蟬聲秋思長。

Phiên Âm:

ĐỀ PHỔ MINH TỰ THỦY TẠ

Huân tận thiên đầu mãn tọa hương,
Thủy lưu sơ khởi bất đa lương.
Lão dong ảnh lý tăng quan bế,
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường.

Dịch Nghĩa:

ĐỀ THƠ Ở NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH

Xông hết nghìn nén nhang, nơi đây tỏa hương thơm lừng,
Dòng nước mới chảy qua khá mát mẻ.
Dưới bóng dong già, cổng chùa đóng cửa, (榕 : Dong, một loài cây như cây si – Theo từ điển Thiều Chửu; 榕 : Một âm nữa là “dung,” cây đa – Theo từ điển Trần Văn Chánh và từ điển phổ thông.)
Một tiếng ve vang lên, [khiến cho] tứ thu man mác dài lâu.

Phỏng Dịch Thơ Việt:

ĐỀ THƠ Ở NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH

Ngàn hương thơm ngát tỏa đầy nhà
Dòng nước vừa trôi, dịu mát qua
Dưới bóng đa già, chùa đóng cửa
Ve rân một tiếng, nhớ thu xa.
(more…)

Nguyễn Trãi
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch

Nguyen_Trai
Nguyễn Trãi (1380–1442)

1. 江 行

西津初艤棹,
風景便江湖。
雨過山容瘦,
天長鴈影孤。
滄浪何處是?
漁釣好為徒。
回首東華地,
塵埃覺已無。

Phiên Âm:

GIANG HÀNH

Tây tân sơ nghĩ trạo,
Phong cảnh tiện giang hồ.
Vũ quá sơn dung sấu,
Thiên trường nhạn ảnh cô.
Thương Lang hà xứ thị?
Ngư điếu hảo vi đồ.
Hồi thủ Đông Hoa địa,
Trần ai giác dĩ vô.

Dịch Nghĩa:

ĐI TRÊN SÔNG

Mới quay thuyền ghé vào bến phía tây
Phong cảnh tiện cho việc rong chơi
Dáng núi hao gầy sau cơn mưa
Cánh nhạn lẻ loi phía trời xa
Sông Thương Lang ở đâu vậy?
Làm bạn với người đánh cá cũng tốt rồi
Quay đầu lại nhìn đất Đông Hoa
Tự biết mình đã hết sạch bụi trần.

Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch:

ĐI TRÊN SÔNG

Bến tây thuyền mới ghé
Phong cảnh tiện rong chơi
Sau mưa dáng núi ốm
Bên trời cánh nhạn côi
Sông Thương Lang đâu vậy?
Bạn đánh cá gặp mời
Đông Hoa ngoảnh đầu lại
Ta sạch bụi trần rồi.

03.10.2014
(more…)

Thơ Nguyễn TrãiNguyễn Du
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch

thu_vang-dinh_cuong
Thu vàng
dinhcuong

NGUYỄN TRÃI
THU DẠ KHÁCH CẢM

阮廌
秋夜客感

旅舍蕭蕭席作門,
微吟袖手過黃昏。
秋風落葉羈情思,
夜雨青燈客夢魂。
亂後逢人非夙昔,
愁中送目寓乾坤。
到頭萬事皆虛幻,
休論凡亡與楚存。

Phiên Âm:

Nguyễn Trãi
Thu Dạ Khách Cảm

Lữ xá tiêu tiêu tịch tác môn,
Vi ngâm tụ thủ quá hoàng hôn.
Thu phong lạc diệp ki tình tứ,
Dạ vũ thanh đăng khách mộng hồn.
Loạn hậu phùng nhân phi túc tích,
Sầu trung tống mục ngụ càn khôn.
Ðáo đầu vạn sự giai hư huyễn,
Hưu luận Phàm vong dữ Sở tồn

Dịch Nghĩa:

Đêm Thu Cảm Hoài Nơi Đất Khách

Quán khách tiêu điều treo chiếu làm cửa
Bỏ tay vào áo ngâm thơ khẽ giọng trong buổi chiều
Lá rụng trong gió thu khêu gợi tình tứ
Đêm mưa ánh đèn mờ khiến khách thả hồn vào mộng
Sau loạn chẳng ai quen biết cũ
Trong cảnh sầu gửi tấm lòng vào trời đất
Trước sau mọi việc đều là hư ảo cả
Thôi đừng bàn chuyện Phàm mất với Sở còn làm gì.

Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch:

Đêm Thu Cảm Hoài Nơi Đất Khách

Hắt hiu quán trọ chiếu treo hờ
Chiều tay trong áo khẽ ngâm thơ
Lá rụng gió thu tình vẫy gọi
Đêm mưa đèn tối khách nằm mơ
Loạn lạc ai người quen biết nữa
Sầu dâng trời đất cảm thông cho
Mọi việc trước sau đều giả hết
Sở còn Phàm mất chuyện bá vơ

30.09.2014
(more…)

Lý BạchBạch Cư Dị
Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch

mua_thu

LÝ BẠCH
THU TỨ

李白
秋思

燕支黃葉落,
妾望自登臺。
海上碧雲斷,
單于秋色來。
胡兵沙塞合,
漢使玉關回。
征客無歸日,
空悲蕙草摧。

Phiên âm:

Lý Bạch
Thu Tứ

Yên Chi hoàng diệp lạc,
Thiếp vọng tự đăng đài.
Hải thượng bích vân đoạn,
Thiền Vu thu sắc lai.
Hồ binh sa tái hợp,
Hán sứ Ngọc Quan hồi.
Chinh khách vô quy nhật,
Không bi huệ thảo tồi.

Dịch nghĩa:

Ở Yên Chi lá vàng rơi
Thiếp tự lên đài cao ngóng nhìn
Trên vùng Thanh Hải mây biếc đứt khúc
Miền Thiền Vu vẻ thu đã trở lại
Quân Hồ kéo đến đầy trước ải cát
Sứ nhà Hán từ Ngọc Môn quan trở về
Lính chiến chưa biết ngày trở về
Thương cho cỏ huệ úa tàn

Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch:

Yên Chi lá vàng rụng
Đài cao em trông vời
Thanh Hải mây xanh lủng
Thiền Vu thu chớm rồi
Giặc Hồ tràn ải cát
Sứ Hán về lại thôi
Đời lính bao giờ gặp
Huệ úa tàn than ôi!
(more…)