Posts Tagged ‘Tô Thùy Yên’

Phan Xuân Sinh


Nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019)

“Em đắp mặt anh mười ngón tay nhánh huệ
Anh biết anh đã trút linh hồn
Sống dậy từ đây đằng sau cái chết
Vốn công phạt, tình yêu kết liễu kẻ cô đơn”

(“Trối trăng,” trang 27. Trích Tô Thùy Yên Tuyển Tập Thơ (mới)

Có phải anh linh cảm về cái chết của mình mà lời lẽ bài Trối Trăng như gửi lại cho người thân lời dặn dò trước lúc lâm chung. Những thi sĩ nổi tiếng bao giờ cũng đi trước số phận, những lời tiên tri gắn liền với thực tế mà khi mất, ta mới giật mình. Anh đã dọn sẵn cho mình một chỗ nằm.

Tôi quen biết với anh Tô Thùy Yên vào khoảng thập niên 1980, lúc đó anh mới ra tù. Chỗ của tôi làm có anh Nguyễn Anh Khiêm bạn với anh và anh Thanh Tâm Tuyền, nên thỉnh thoảng hai anh ghé lại chơi. Uống một chút cà phê, hút vài điếu thuốc chuyện trò đủ thứ. Tôi chỉ là người ngồi lắng nghe và từ chỗ nầy tôi đã học được nhiều ở hai anh. Phải nói hai anh có một kiến thức uyên bác, thông thạo cổ kim. Tôi ngồi nghe hai anh kể chuyện về nhữn g nhà thơ mà hai anh đã gặp. Những người ở Miền Bắc vào tìm thăm hai anh. Hai anh người nào cũng ở tù lâu dài, cũng bị đày đọa như những người khác, nhưng khi có ai hỏi về những tháng năm đó, hai anh trả lời mà không đượm một chút gì thù hận hay cay cú. Tôi rất thán phục về nhân cách tuyệt vời của hai anh.
(more…)

Ngự Thuyết


Nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019)

Tôi đã viết khá vội vàng về Đêm Qua Bắc Vàm Cống ngay sau khi nghe tin nhà thơ Tô Thùy Yên không còn nữa. Nhưng sự ngưỡng mộ của tôi đối với Tô Thuỳ Yên rất lớn, không khác gì đối với Thanh Tâm Tuyền. Trong khi đó tôi đã “kể lể dài dòng” nhiều lần về nhà thơ sau. Cho nên tôi cảm thấy có bổn phận trở lại với Tô Thùy Yên, Trở Lại với Đêm Qua Bắc Vàm Cống để nói lên “mối tình thủy chung và kín đáo” của tôi đối với bài thơ ấy, và đồng thời nêu vài ý nghĩ về mấy bài thơ đầu đời nhưng rất quan trọng của Tô Thùy Yên.

Đấy chỉ là bước đầu của tôi đối với những bài thơ đầu tiên của nhà thơ. Tôi mong sẽ có dịp đề cập thêm về sự nghiệp thi ca lớn lao mà Tô Thùy Yên đã để lại cho nền Văn Học Việt Nam.  (more…)

Ngự Thuyết

Đêm Qua Bắc Vàm Cống, một bài thơ ngắn, ra đời cách đây lâu lắm, hơn 60 mươi năm khi tác giả của nó, Tô Thùy Yên, chưa tới tuổi hai mươi. Thỉnh thoảng tôi đọc lại bài thơ ngắn đó, và lại nhớ mấy lần qua cái bắc ấy, trước 1975, trên đường đi về Lục Tỉnh, qua Sa Đéc, Long Xuyên. Lần nào cũng thế, qua đó, cái buồn bỗng dưng ập tới. Tại sao? Tại vì bến bắc hồi đó còn quạnh quẽ lắm, nước sông Cửu Long chảy miên man, lục bình trôi hàng nối hàng như không bao giờ dứt? Thì Tô Thuỳ Yên cùng với bài thơ đó hiện về. Thế là cũng tại vì bài thơ có sức ám ảnh lớn. Đọc lại nó, nghe lại nó, như nghe  lời nguyền của định mệnh.
(more…)

Nguyễn Mạnh Trinh


Nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019)

Tháng 2, 1987, ở xứ người, đọc Anh Hùng Tận, đọc Qua Sông. Có một liên tưởng nào của một người lính trẻ lái xe xuôi ngược trên freeway Nam Bắc, nhìn mông về rặng núi thẫm xanh trước mặt gờn gợn trong lòng những cơn mưa ngày xưa. Của một thời trận mạc. Của nỗi niềm quẩn quanh một thời hào sảng. Nhớ thi sĩ. Tô Thùy Yên đang mịt mù trong tù ngục quân thù ở quê nhà. Đọc thơ, tưởng gặp người hào sĩ ở ngã ba sông, xuồng ba lá đậu kế chân bàn. Ôi cái thuở xưa chiến chinh, trời đất làm nhà, bằng hữu muôn phương là anh em. Ôi cái thời tuổi trẻ. “Mấy kẻ gặp nhau nào có hẹn / nên gặp nhau không dấu nỗi mừng / ta gạn dăm ba lời tặng bạn / dẫu từ lâu bỏ việc văn chương / thiệt tình tên bạn ta không nhớ / nhưng mà trông mặt thấy quen quen / hề chi ta uống cho say đã / nào có ra gì một cái tên / tới đây toàn những tay hào sĩ / sống chết không làm thắt ruôt gan / cũng không ai nhắc gì thân thế / có vợ con mà như độc thân / bạn hỏi thăm ta cho có lệ / cuộc đời binh nghiệp Ta cười bung / còn mươi tháng nữa lên trung úy / có thể ngày mai chửa biết chừng…”
(more…)

Nguyễn Mạnh An Dân


Nhà thơ Tô Thùy Yên (1938-2019)
Tô Thùy Yên, tên thật Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định trong một gia đình bình thường, đông các em, cha làm chuyên viên phòng thí nghiệm thuộc Viện Pasteur, sau về Bệnh viện Chợ Rẫy, mẹ nội trợ. Học tiểu học ở Gia Định, trung học ở Sài Gòn (trường Petrus Trương Vĩnh Ký và tư thục Les Lauriers), có ghi danh theo học ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Văn Chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở. Động viên vào cuối năm 1963, khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tại ngũ cho đến ngày 30 – 4 – 1975, chủ yếu trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Cấp bực cuối cùng: Thiếu Tá. Tù Cộng Sản ba lần, tổng cộng 13 năm. Cuối năm 1993, cùng gia đình sang tị nạn tại Hoa Kỳ, mấy năm đầu ở Saint Paul, Minnesota, sau dọn về Houston, Texas cho đến nay. Thơ Tô Thùy Yên bắt đầu xuất hiện trên báo chí từ năm ông 16 tuổi. Gia nhập nhóm Sáng Tạo thành hình năm 1956, cộng tác đều đặn với nhiều tạp chí văn học ở miền Nam, chủ trương nhà xuất bản văn học Kẻ Sĩ. Đã xuất bản: Thơ Tuyển, ấn bản tại Đức năm 1994, ấn bản tại Mỹ năm 1995; Thắp Tạ, 2004. (Nguyễn Mạnh An Dân)

 
Nguyễn Mạnh An Dân (NMAD): Anh là một tác giả thành danh rất sớm, thường xuyên có thơ văn đăng báo từ khi mới 16, 17 tuổi, và cho đến năm 1975, anh đã gần như liên tục tham dự vào những hoạt động có liên quan đến chữ nghĩa như viết báo văn học, có lúc làm báo văn học, dịch sách văn học Pháp, thậm chí làm cả xuất bản văn học, vậy mà anh lại chẳng cho xuất bản một tác phẩm nào của anh, tại sao vậy?

Tô Thùy Yên (TTY): Phải thú nhận là có rất nhiều lúc bất đắc ý với đời sống, tôi đã tỏ ra không mặn mà cho lắm với chữ nghĩa văn chương dù rằng hồi còn trẻ nhỏ, tôi đã cực kỳ mê đắm văn chương, nung nấu ước vọng sau này trở thành một tác giả giá trị. Tôi thường xuyên trăn trở trong cái ý nghĩ gai góc là văn chương phải chăng cũng chỉ là một trò chơi mà mắt, dối gạt, phù phiếm, vô bổ. Nên đã có mấy lần, đặc biệt hồi mới vào lính, bị đặt trước một tương lai sinh tử chờn rờn, trong mấy năm liền, tôi đã tự ý dứt khoát xa lìa mọi sinh hoạt văn chương chữ nghĩa, đến độ chỉ một hai người bạn thân ở Sài Gòn lúc bấy giờ biết rõ tôi lưu lạc ở nơi nào của đất nước. Những đại họa giáng xuống con người vô phương tránh đỡ, văn chương cùng lắm cũng chỉ là thêm nữa một tiếng kêu đau. Còn nhớ hồi 19, 20 tuổi, tôi đã viết một câu thơ: Anh định ngày rất gần đây, sẽ thôi làm văn nghệ, tôn giáo của những anh hùng bất lực… Vào cái thời còn là ngựa non, dê cỏn, tôi lẫn quẫn với cái ảo tưởng anh hùng đương đầu với cuộc sống. Sau này, trên 60 tuổi, tôi lại viết: Ôi, kinh điển nào chẳng là bia chú đoạn trường: / Nơi đây nhân loại cùng quẫn không yên nghỉ. Nói chung, trước kia cũng như sau này, đối với tôi, văn chương vẫn chỉ là một chứng từ sao lại về sự thất bại của con người trước cuộc sống.
(more…)

Thụy Khuê


Nhà thơ Tô Thùy Yên
dinhcuong

Hành giả của cô đơn, Tô Thùy Yên đáp chuyến tốc hành “cánh đồng con ngựa chuyến tầu”, năm 56, vào vòng khắc biệt của thời gian, nghiền nát hình hài, đập tan bão tố, giã vụn tâm tư, biến tất cả thành hư vô, trừ đá: Ðá ở lại. Ðá ở lại, trong ánh tàn dư, khiến cho thời gian, đácon người trở thành tương quan tồn tại.

Trên cánh đồng hoang thuần một mầu
Trên cánh đồng hoang dài đến nỗi
Tàu chạy mau mà qua rất lâu
Tàu chạy mau, tàu chạy rất mau
Ngựa rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu.
Cỏ cây, cỏ cây lùi chóng mặt
Gò nổng cao rồi thung lũng sâu.
Ngựa thở hào hển, thở hào hển.
Tàu chạy mau, vẫn mau, vẫn mau.
Mặt trời mọc xong, mặt trời lặn.
Ngựa gục đầu, gục đầu, gục đầu.
Cánh đồng, a! Cánh đồng sắp hết.
Tàu chạy mau, càng mau, càng mau.
Ngựa ngã lăn mình mướt như cỏ,
Chấm giữa nền nhung một vết nâu.
(Cánh Ðồng Con Ngựa Chuyến Tàu, tháng 4-1956)
(more…)

Đỗ Trường


Tô Thùy Yên
dinhcuong

Hiệp định Genève cắt đôi hình đất nước, kéo theo một cuộc di dân từ Bắc vào Nam, với qui mô chưa từng có, kể từ ngày lập quốc. Những người di dân ấy, đã mang theo ngôn ngữ, văn hóa đặc trưng vùng, miền về nơi định cư mới. Và trong dòng người đó, có rất nhiều văn nhân, nghệ sĩ tài năng. Có thể nói, cái ngôn ngữ, văn hóa này, ảnh hưởng ít, nhiều đến tâm hồn những văn nghệ sĩ phương Nam. Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ chịu ảnh như vậy, và ngay từ buổi đầu đến với thi ca. Nhất là từ khi ông tham gia sáng lập tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn cùng với những thi sĩ, văn nhân đất Bắc như: Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sĩ Tế, Thái Tuấn, Ngọc Dũng, Duy Thanh…

Do vậy, đọc Tô Thùy Yên, ta có thể thấy, dường như ông đã trộn ngôn ngữ, văn hóa của cả ba miền Bắc Trung Nam vào những trang thơ của mình, để làm nên ngôn ngữ thơ (bác học) sang trọng, không thể lẫn lộn với bất cứ nhà thơ nào khác. Thông thường khi đọc một tác phẩm nào đó, một chút lưu tâm, ta có thể nhận ra quê quán nơi sinh trưởng của tác giả, thông qua ngôn ngữ biểu đạt. Nhưng, cũng giống như nhà thơ Luân Hoán, đọc Tô Thùy Yên, quả thật, khó có thể nhận biết, quê quán, nơi sinh trưởng của ông qua những đặc tính trên.
(more…)

Ngô Nhân Dụng

to_thuy_yen-dinh_cuong
Tô Thùy Yên
dinhcuong

Tháng Ba năm 1974, hai tháng sau khi Trung Cộng tấn công chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đưa một phái đoàn đi thăm một đảo trong quần đảo Trường Sa; chắc để ủy lạo tinh thần các quân nhân đồn trú. Trong số người tham dự chuyến đi có Ðại Úy Ðinh Thành Tiên, lúc đó 36 tuổi.

Ông cũng là thi sĩ nổi danh Tô Thùy Yên từ 20 năm trước, xuất thân từ tạp chí Sáng Tạo.

Khi trở về Tô Thùy Yên viết bài thơ Trường Sa Hành, đăng trên tạp chí Văn, ở Sài Gòn. Trong lúc đó Việt Cộng đang tấn công tỉnh Phước Long, dọn đường cho cuộc tổng tấn công vào năm sau, mặc dù đã ký hiệp định đình chiến ở Paris. Trong không khí chiến tranh bùng trở lại, viện trợ của đồng minh bị cắt đứt, người dân miền Nam ngơ ngác, không ai có thời giờ nghĩ tới Trường Sa, những hòn đảo lẻ loi giữa trùng dương xa tắp. Bài Trường Sa Hành chìm vào đáy sâu kho trí nhớ của những người yêu thơ, yêu tiếng Việt.
(more…)

Phạm Đức Nhì


Poet in construction by Jose Manuel Merello

Lê Đạt và Tô Thùy Yên là hai tài năng thơ đặc biệt của Văn Học Việt Nam. Khi đất nước chia đôi năm 1954, Lê Đạt ở miền bắc. Từ những năm 50 ông đã nỗ lực thay đổi bộ mặt của hình thức thơ. Về nội dung, ông tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, đứng về phía nhân dân chĩa mũi dùi vào những bất công, bất cập của chế độ. Bài thơ Nhân Câu Chuyện  Mấy Người Tự Tử được nhiều người biết đến và một thời đã gây xao động văn đàn miền bắc.Tô Thùy Yên ở miền nam. Cũng vào những năm cuối thập niên 50 ông nằm trong nhóm Sáng Tạo, tìm một hướng đi mới cho thơ ca và văn học miền nam. Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo 10 năm. Được thả, ông sáng tác bài Ta Về được rất nhiều người tìm đọc và khen ngợi.
(more…)