Archive for the ‘Truyện Ngắn’ Category

Tưởng Năng Tiến

Vừa rời nhà thì trời lấm tấm mưa, đường trơn và tối nên tôi lái xe rất chậm – dù thuở ấy tuổi đời còn trẻ. Phải qua đêm nay, đêm giao thừa,  tôi mới bước qua tuổi ba mươi – nếu tính theo âm lịch. Tam thập nhi lập nhưng tôi đang hơi lập cập vì vừa bắt đầu một cuộc đời mới, đời tị nạn.

Nghề ngỗng không, tiền bạc không, vốn liếng tiếng Anh cũng không được nhiều nhặn gì cho lắm. Chỉ có điều may mắn là tôi không đến nỗi thất nghiệp thôi. Việc làm tuy chỉ với đồng lương tối thiểu nhưng được cái rất nhẹ nhàng và dễ dàng như chơi vậy. Tôi có thể đi học ban ngày. Mãi đến 10 giờ tối mới phải có mặt ở trạm săng, để thay thế cho người làm việc ca chiều, rồi loanh quanh ở đó cho đến sáng sớm hôm sau.
(more…)

Phan Ni Tấn

Nhớ hồi mới lên tám tui đã có mối tình đầu rồi. Nhưng mà mối tình con nít để đời này trước sau đều do con nhỏ Tàu lai cột dính tui vô với nó chớ nhà quê ruộng như tui bơ ngơ báo ngáo hổng biết gì ráo trọi.

Con nhỏ họ Lã tên Xíu Nương thiệt đáo để; nó hổng phải “người thường”. Con Mối, nhà thường gọi vậy, thay vì cột tay cột chưn tui, nó lại quăng mối dây tơ hồng, mềm mềm, mỏng mỏng, dài dài của nó tròng vào buồng tim tui, thắt chặt. Con Mối chút xíu nên tứ chi, mình mẩy cũng chút xíu, nhưng nó lẹ như sóc. Có lẽ bà Eva ở vườn địa đàng bỏ nhỏ sao đó khiến nó hăm hở xiết mối tơ hồng thiếu điều con tim tui muốn rụng, có nghiến răng ken két mụ nội tui cũng hổng làm sao tháo ra cho đặng.
(more…)

Nguyễn Thị Vinh

Lúc mẹ Hà gọi thì Hà còn đang ngủ say chưa muốn dậy; nhưng giọng mẹ Hà dịu dàng nói:

– Hôm nay mồng một Tết, con gái mẹ dậy sớm một chút nào. Dậy mặc áo đẹp rồi ra mẹ mở hàng cho.

Thế là Hà vội ngồi dậy và tỉnh ngủ ngay. Thoạt mở mắt chỉ mới nhìn thấy mẹ mà lòng Hà đã rộn lên. Trông mẹ hôm nay tươi đẹp lạ. Mới sáng sớm mà mẹ đã mặc áo dài. Mẹ mặc chiếc áo Thượng Hải màu huyết dụ; chiếc áo mà từ lâu rồi mẹ Hà chỉ cất ở trong tủ; mẹ lại đánh phấn nữa, thảo nào trông mẹ khác và đẹp quá làm Hà càng thấy vui sướng và yêu mẹ hơn lên. Hà níu chặt lấy cổ mẹ yên lặng áp má trên vai mẹ, nhưng mẹ Hà nhè nhẹ gỡ tay Hà ra và mỉm cười nói:

– Con mẹ năm nay đã lên tám rồi mà còn nũng nịu mãi thôi.
(more…)

Wolfgang Borchert
Lưu Thủy Hương dịch từ nguyên tác Die Kegelbahn

*
Chúng tôi là kẻ chơi bóng gỗ.
Chúng tôi chính là những quả bóng.
Nhưng đồng thời cũng là những con ky,
gục đổ cuối đường.
Và đường băng với tiếng vang ầm ĩ,
là trái tim của chúng tôi.
*

Hai gã đàn ông đào xuống đất một cái hố. Nó rộng rãi và tương đối ấm cúng. Như một cái huyệt. Nơi người ta cố thủ.

Trước mặt họ là khẩu súng. Một kẻ đã phát minh ra nó, để người ta có thể dùng nó bắn vào con người. Thường người ta chẳng quen biết gì những con người đấy. Người ta còn không hiểu ngôn ngữ của họ. Và họ cũng chẳng làm hại một ai. Nhưng mà người ta phải cầm súng bắn vào những con người đấy. Chuyện này đã có kẻ ra lệnh. Và để người ta có thể bắn chết bọn đấy cho thật nhiều vào, có kẻ đã phát minh ra một thứ súng máy bắn hơn sáu mươi phát trong một phút. Vì lẽ ấy anh ta từng được tưởng thưởng.
(more…)

Phạm Tín An Ninh

Đơn vị tôi, dù đã tạo được những chiến thắng lẫy lừng trong suốt Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, để có một “Kontum Kiêu Hùng” và giữ vững được Tây Nguyên, nhưng có chiến thắng nào lại không phải trả giá bằng máu xương chiến sĩ. Để kịp thời đối phó với tình hình chiến tranh leo thang, ngày một khốc liệt, đơn vị cần được khẩn cấp bổ sung quân số, từ cấp đại đội trưởng cho đến khinh binh. Số lượng sĩ quan, hạ sĩ quan tốt nghiệp ở các quân trường không đủ, nên Bộ Tổng Tham Mưu phải ban hành kế hoạch “đôn quân”, đưa những quân nhân phục vụ lâu năm từ các tiểu khu, các quân trường, trung tâm huấn luyện, ra bổ sung cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt quân số.

Tháng 5-1973. Thời gian này tôi đang đảm trách một phần hành tại Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Trong lần đơn vị tiếp nhận một số khá đông sĩ quan và hạ sĩ quan, tôi bất ngờ nhận ra trong số những người đang xếp hàng trình diện ông Trung Đoàn Trưởng có một người bạn học khá thân và một vị giáo sư thời trung học ngày xưa. Thằng bạn mang cấp bậc đại úy – tôi đã biết từ trước, nhưng điều đặc biệt làm tôi ngạc nhiên là ông thầy chỉ mang cấp bậc trung sĩ nhất. Thoáng có một chút ngờ vực, tôi bước tới gần ông hơn để chắc chắn là trí nhớ của mình không tệ lắm.
(more…)

Đoàn Việt Hùng

Những thanh nứa khua rột rẹt. Lớp rơm dày cạ vào lưng. Tiếng ú ớ lơ lửng trong tiếng chép miệng. Khí núi lạnh buốt. Những tấm lưng còm nhom chèn khít trên tấm vạt không đủ chuyền hơi ấm cho nhau.

Tôi lăn qua trở lại cùng bóng tối. Đêm mịt mù giữa lòng chảo. Núi thì cao. Khí lạnh thì dày. Xa gần là rừng nứa như vệt lọ nồi bôi kín vách lá, đen thui.

Mảng sữa đục ôm gọn lớp khí trời, cuồn cuộn dập dềnh lên xuống dọc ngang, bó cứng vạt nứa tựa chiếc bè trôi trên sông băng.

Tôi nằm còng queo trên chiếc mảng, nghe nước lạnh ngắt dưới lưng và đầu óc gần như đông cứng.
(more…)

Guy De Maupassant (1850-1893)
Thân Trọng Thủy dịch từ nguyên tác “La bûche” (1882) của tác giả

Phòng khách nhỏ, phủ đầy màn cửa dày, kín đáo thoảng mùi hương thơm. Trong lò sưởi lớn lửa đang cháy và một ngọn đèn với cái chao viền rua đăng–ten cũ đặt bên góc lò sưởi chiếu ánh sáng lờ mờ lên hai người đang trò chuyện.

Người đàn bà, chủ nhà, là một bà già tóc bạc, một trong những bà già khả kính, làn da không có nếp nhăn, mịn màng như một tờ giấy láng mỏng và thơm, do từ lâu bà tắm bằng nước tẩm tinh dầu nguyên chất để làm đẹp da; môt bà già mà mỗi khi hôn tay bà người ta cảm thấy mùi thơm nhẹ xông lên mũi như khi mở một hộp mùi hoa diên vĩ của Florence.

Người đàn ông là một bạn cũ, sống độc thân, một người bạn gặp gỡ hàng tuần, một bằng hữu thông thường, không hơn không kém.
(more…)

Xóm cũ

Posted: 01/01/2020 in Trần Bạch Thu, Truyện Ngắn

Trần Bạch Thu

Buổi tối sau khi cơm nước xong xuôi cả nhà ngồi quanh chiếc bàn gỗ đỏ hình chữ nhật sơn vẹc-ni bóng láng, ở giữa đặt một cây đèn dầu ống khói dài có đế cao bằng thủy tinh màu xanh nước biển. Ba ngồi ở đầu bàn phía trong vách nói với mẹ vừa đủ nghe.

– Em lo thu xếp vài ngày nữa chuyển hết gia đình về Mỹ Tho.

– Sao gấp vậy?

– Anh đã xin được một căn nhà trong trại lính ở dưới đó.
(more…)

Trần Thế Phong

Tôi có ba chị em, đúng ra là có bốn chị em lận. Nhưng chị ba tôi mất khi mới ba tháng tuổi, nên còn ba chị em.

Ba chi em tôi thương nhau lắm, đùm bọc lẫn nhau. Nhớ thời sinh tiền cha mẹ tôi thường nhắc bảo: ba chị em bây như cục máu xén làm ba nên phải thương yêu nhau, đùm bọc lẫn nhau. Và vì thế đến bây giờ ai nấy đều trên dưới bảy mươi lại càng thương nhau hơn.

Chị hai tôi lớn hơn tôi sáu tuổi, em trai tôi thua tôi ba tuổi. Cha mẹ tôi cứ cách ba năm sinh một đứa. Chị hai tôi lớn hơn tôi sáu tuổi nên anh em tôi sợ chị hai lắm. Chị hai tôi là đứa con gái lớn nên cha mẹ tôi cũng cưng chìu chị. Chị học đến lớp bảy trường Phan Chu Trinh của Việt Minh kháng chiến chống Pháp. Khi chia đôi đất nước chị đi học may, học nghề y tá và cuối cùng đi dạy học đến lúc về hưu.
(more…)

Heinrich Böll
Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng dịch

Tại một bến tầu ở bờ biển phía tây Âu Châu có một người áo quần nghèo khó nằm dài trên chiếc thuyền câu của mình và lim lim mơ màng ngủ. Một du khách ăn mặc sang trọng lắp một cuốn phim mầu mới vào máy ảnh để chụp cảnh thơ mộng: trời xanh, biển đậm với những đợt sóng hiền lành trắng như tuyết, với chiếc thuyền đen xậm và chiếc mũ đỏ của người đánh cá.

“Tách”, và vì chuyện gì tốt cũng phải ba lần mà cũng để chắc ăn, “tách”, “tách” thêm một lần, thêm một lần thứ ba nữa. Những tiếng động khô cứng và gần như đáng ghét đó đánh thức bác chài đang ngủ mơ màng. Bác ngái ngủ đứng dậy, ngái ngủ lấy tay với bao thuốc, nhưng trước khi bác tìm thấy, du khách đã săn đón chìa trước mặt bác một bao, không đưa tận miệng, nhưng rút ra đặt một điếu thuốc vào tay bác chài, rồi một tiếng “tách” thứ tư của chiếc bật lửa chấm dứt sự lễ phép săn đón đó. Một nỗi bối rối căng thẳng gây nên do sự lễ phép quá nhiều nhưng khó đo lường và khó chứng tỏ rõ rệt khiến du khách vì hiểu tiếng địa phương tìm cách bắt chuyện cho đỡ trống trải.

“Chắc rồi hôm nay bác sẽ đánh được một mẻ cá lớn?”
(more…)

Nguyễn Thị Kim Thoa

Nhà văn là thư ký chép mọi sự anh ta nhìn thấy trong cuộc đời – ta thường nghe nói thế. Nhưng không phải những người được gọi là nhà văn đều làm công việc ấy. Tôi không ngăn được nước mắt mình khi đọc một bài này của một thư ký thực sự của cuộc đời. Tôi muốn các bạn đọc nó cùng tôi. Ở đây văn học nằm dưới chân sự thật – Vũ Thư Hiên

Tôi đến thị xã Ban Mê Thuột vào một buổi chiều đầu mùa khô năm 1977. Gió bụi của miền cao nguyên đất đỏ làm tôi tối mắt sau một chuyến đi dài trên chiếc xe đò cọc cạch. Để mặc cho anh Chu Sơn chồng tôi loay hoay với mấy túi áo quần, sách vở. Bước xuống xe, tôi chỉ còn đủ sức ngồi bệt trên đám cỏ bên vệ đường. Đất đỏ, cỏ úa và bầu trời buổi chiều xám xịt. Đất trời Ban Mê Thuột buổi đầu giao tiếp đối với tôi chẳng thú vị gì.

Nơi tôi làm việc là khoa nhi Bệnh viện tỉnh Dắk Lắk. Đây là một đấu trường quá sức với tôi. Cảm nhận lúc đầu là như thế. Khoa có 50 giường bệnh, bệnh nhân nằm la liệt hai ba em trên một giường. Những chiếc giường sắt tây cũ rét, cái mất song, cái gãy chân kê đóng khấp khểnh. Màn chiếu đen, tả tơi rách nát. Nhân viên của khoa vỏn vẹn có 10 người. Một trưởng khoa, một bác sĩ điều trị, sáu y tá và hai hộ lý. Trưởng khoa là chị Liên, y sĩ từ chiến khu về. Bác sĩ điều trị là một đại úy quân y, ông Nguyễn Hữu Thới. Sáu chị y tá là các chị Hoa, Hà, Toan, Ri, Kính và H’Băm làm nhiệm vụ điều dưỡng. Hai y công là chị Thái và chị Bé.
(more…)

Phạm Nga

1.
Hòa biết bản “Bài thánh ca buồn” của nhạc sĩ Nguyễn Vũ khi Hòa mới 15 tuổi, đang học lớp đệ tam C trường Pétrus Ký. Ông nhạc sĩ tài hoa đã kể thuở còn một cậu bé 14 tuổi sống trên Đà Lạt, ngày ngày đi lễ ở nhà thờ Con Gà thì tình cờ gặp một cô gái rất xinh. Mở lời làm quen thì biết cô ấy lớn hơn mình 2 tuổi nhưng trái tim vụng dại của cậu con trai mới lớn vẫn đập loạn nhịp trước bóng dáng thiếu nữ có mái tóc dài buông thả, đẹp như mộng ảo giữa cảnh sắc đồi thông Đà Lạt sương mù.

Hòa mê mẩn trước lời kể của nhạc sĩ Nguyễn Vũ, rằng có một lần tan lễ Giáng sinh thì trời đổ mưa, cô gái nép vội vào mái hiên ngôi nhà nọ gần nhà thờ, ông cũng đứng trú bên cạnh. Những kỷ niệm và xúc cảm thiết tha lần ấy chính là nguồn cảm hứng để ông viết nên bản “Bài thánh ca buồn” sau này.
(more…)

Hans Christian Andersen
Nguyễn-Khắc Tiến-Tùng kể lại truyện cổ tích Đan-mạch Cô bé với những que diêm của Hans Christian Andersen.

Trời lạnh ngắt, tuyết rơi đều và trời bắt đầu tối; đây cũng là chiều cuối năm, tối giao-thừa. Giữa cảnh giá lạnh lẽo tối tăm này một cô bé đang đi ngoài đường đầu trần, chân đất. Đúng rồi, trước đây lúc ra khỏi nhà bé đã đi giầy, nhưng có hơn gì đâu? Đó là đôi giầy quá rộng mẹ bé đã dùng, thật là quá rộng. Rồi bé cũng mất luôn lúc băng qua đường vì lúc đó có 2 chiếc xe vụt qua nhanh kinh khủng. Một chiếc giầy mất luôn không sao tìm lại được, còn chiếc kia thì một thằng nhỏ cầm lấy chạy biến đi và còn bảo là có thể dùng làm nôi cho trẻ con được khi nào nó có con!
(more…)

Vĩnh Chánh

Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi (1)

Chị biết anh vì hai gia đình ở chung xóm gần chợ Gia Định. Chị cũng là bạn cùng lứa với em anh từ trường tiểu học cho đến lúc vào trường Trưng Vương. Anh học Khoa Học Sài Gòn. Thỉnh thoảng anh dừng chân ở quán nhà chị ở đầu ngõ, chào hỏi vu vơ, nói đôi ba câu chuyện. Kêu chị là bé dù anh chỉ hơn chị chừng 5 tuổi. Vậy mà chị lại thích, chị có cảm giác mình thật bé bỏng khi đứng bên cạnh anh thật cao lớn, cần sự che chở của anh.

Năm lên lớp 11, chị thấy anh vắng mặt một thời gian ngắn, qua nhỏ bạn biết anh động viên vào Thủ Đức. Rồi anh lại hiên ngang xuất hiện sau đó với bộ đồ hoa dù và nón Beret đỏ. Cuộc tình bắt đầu, với người yêu là một Thiên Thần Mũ Đỏ.
(more…)

Lại Thanhhà
Nina Hòa Bình Lê phỏng dịch


Hình minh họa của Ann Phong

Lá phổi của tôi nhận ra không khí. Một cái bình đựng dầu rỗng nhưng có nắp đậy trôi bập bềnh bên cạnh. Chụp lấy nó, trồi lặn, những làn sóng có tác dụng như bàn đạp. Xa xa, những chiếc bóng lần lượt nhảy xuống biển trong khi chiếc tàu đánh cá của chúng tôi đang hừng hực bốc cháy. Tiếng cười của bọn hải tặc rộ lên giữa tiếng máy tàu rồ mạnh cùng tiếng la ó hỗn loạn từ những cô gái bị bắt đi. Một cái bóng tóc dài nhảy vọt xuống biển. Tôi đếm thấy tám cái đầu bập bềnh trên mặt đại dương.

Bàn chân tôi cảm nhận được cát. Rắn chắc, sần sùi, nhột. Cảm giác vui mừng đặt chân lảo đảo vào đất liền, rồi bò xuống, và cuối cùng nhấc toàn thân ra khỏi biển. Toàn bộ trọng lượng đặt lên hai lòng bàn tay, hai đầu gối. Tôi trườn vào bờ và bắt đầu ói.
(more…)

Nguyễn Lệ Uyên

1.
Người ta nói tôi chết từ lâu lắm rồi, đâu mới khoảng 2, 3 tháng tuổi. Xác tôi đặt trên mo chuối dưới gốc mận. Mươi, hai mươi ngày sau tôi vẫn nằm chỗ đó. Mắt vẫn mở nhưng thỉnh thoảng bị cái gì đó che lại, không thấy gì cả, chỉ nghe những tiếng lào xào chung quanh như cánh đập của đàn ruồi khổng lồ. Mười, hai mươi năm sau tôi vẫn cố định ở vị trí ban đầu. Chỉ có sự thay đổi chút ít, đó là lớp cọng rêu và những cây dương xỉ mỏng manh ôm ấp tôi như người mẹ âu yếm con.

Tôi sống và lớn lên bằng tình thương vời vợi không gì thay thế cùng những cơn mê và những giấc mơ. Chỗ gốc mận già là căn phòng khoảng ba chục mét vuông. Ba bên là những giá sách cao hai tầm vói, chất đầy, lèn khít to nhỏ dày mỏng. Những quyển sách đó là những hình nhân sống động vào mỗi buổi tối. Những đêm trăng sáng, tôi thấy nàng Kiều tha thướt bước ra từ bụi dú dẻ ngào ngạt hương thơm, nhưng vẻ mặt thì đờ đẫn buồn đến hiu hắt. Có đêm tôi lại thấy nàng Emily Brontë thơ thẩn trên đồi Wuthering Heights. Thân thể nàng được bao quanh bằng màu vàng của trăng và trắng phai của sương và tuyết mỏng. Nhiều khi nàng khựng lại, người co rúm vì Chí Phèo với chai rượu vơi kẹp nách bước loạng choạng bên kia đường, một tay cầm cây mã tấu, tay kia cây búa tạ. Thỉnh thoảng tôi nhìn thấy hai nàng mở nụ cười với gã Zorba, nhưng cả hai không giống nhau, mỗi nụ cười là những bí mật riêng của hai nàng mà chính người bị nhìn cũng không tài nào hiểu thấu. Vả lại hai chàng đâu có nhiều thời gian để nhìn bất cứ ai, biểu cảm bất cứ điều gì ngoài những giọt rượu cay trong cổ họng Zorba và vũ khí ở hai tay Chí Phèo? Nhiều đêm tôi nghe tiếng gươm đao loảng xoảng, những tiếng la hét, những tiếng gào rú kinh hoàng. Những hình nhân bằng rơm vác những tảng đá khổng lồ lảo đảo bên thànhVạn lý; xa xa là máu các chiến binh dưới lưỡi gươm oan khốc của Chu Nguyên Chương và cuộc tắm máu của triều đại Chinazi. Chúng diễu qua như hình nhân trong chiếc đèn kéo quân.
(more…)

Hồ Đình Nghiêm

1.
Trước tiên, họ cử người đi tìm Beo. Họ có ảnh Beo và thu thập các sinh hoạt cá nhân của đứa thanh niên 22 tuổi được lấy ra từ laptop của Sóc. Một chi tiết nằm trong bài thơ mới nhất của Sóc khiến cảnh sát quan tâm: Vẽ ra, gợi tới một cánh rừng mở lối cho đôi nhân tình nắm tay vào tự cưỡng chống những oan khuất. Giả thiết đặt ra, dưới mắt nhìn của bạn dân: Chúng vào rừng tự tử.

Tấm bản đồ thành phố được trải rộng, một vùng đất cao gần như bỏ hoang nằm hướng tây bắc được ghim ngay một cây kim đỏ. Theo lời khai từ phía gia đình, Sóc mất tích đã hai hôm, họ xin phép được vào phòng Sóc, mọi vật ngăn nắp chừng như y nguyên. Sóc chẳng mang theo người một thứ gì cả, cái túi đeo vai, thứ mà con gái luôn không quên khi có việc đi ra ngoài vẫn nằm gần cửa. Trên bàn, vuông bạc MacBook Air đặt ngay ngắn và nó trở thành đầu mối duy nhất hòng khai mở được ít nhiều tin tức. Một chuyên viên giỏi về điện toán mất chừng mười phút đã tìm ra được password để vào lùng sục thế giới riêng tư của chủ nhân, họ xem lướt những trang thơ của Sóc, những trao đổi với bạn trai và do vậy họ tình nghi Beo.
(more…)

Ngự Thuyết

Ông thích lái xe chạy ra khỏi thành phố. Với ông, thành phố đồng nghĩa với tù hãm. Nếu được ngồi ghế trước trên chiếc xe đò chạy đường xa, cỡ bự, hơn 60 ghế, để nhìn trời cao đất rộng thì càng tốt. Tha hồ mở mắt. Chứ loanh quanh mãi tại nhà như con gà ăn quẩn cối xay, chán lắm. Nhiều khi muốn khùng luôn. Hết ngó cái vườn hoa cũ, lại nhìn ngôi nhà xưa, ngày này đến ngày khác. Buồn tình ngẩng mặt trông lên, thấy mây cũng “già”. Mây già nua – hình như một thi sỹ nào nói vậy ông tình cờ nghe loáng thoáng qua một thằng sính thơ. Và bỗng nhiên nhớ. Thường ông hay quên những chuyện ruồi bu, nhưng thơ thì cố nhớ. Mà nghĩ cũng đúng, mây bay đã ngàn năm, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay, hay lâu hơn, lâu hơn là cái chắc, không già sao được.
(more…)

Hồ Đình Nghiêm

Như đa số các căn nhà ẩn mình trong Thành Nội, gia cư Mít có sân trước có vườn sau. Nhà nằm trong kiệt, lối đi nhỏ, hai bên trồng dãy chè tàu thế hàng rào, đôi chỗ có chen cài cây dâm bụt đang nở bông màu đỏ làm vui mắt. Ve kêu vang rân mùa hè, cóc nhái ễnh ương đay nghiến năm canh mùa đông. Hai mùa cứ thế vận hành trôi, dấu chân để lại trên mái ngói đầy rêu xanh và vách tường phải quét lớp vôi mới mỗi độ xuân về.

Mít học lớp đệ Lục trường Nữ trung học Thành Nội. Trình độ ngang nhau, có điều tôi thì học ở trường Hàm Nghi do bởi phân chia rạch ròi chuyện “nam nữ thọ thọ bất tương thân”. Lục Vân Tiên (?) cũng có nói: “Khoan khoan ngồi đó chớ ra, nàng là phận gái ta là phận trai”. Nhà tôi cuối kiệt mà nhà Mít nằm đầu đường, khoảng giữa lọt thỏm căn nhà có treo tấm bảng “coi chừng chó dữ”. Bộ hành đi bên ngoài có rón rén cách mấy cũng bị nghe phải tiếng sủa đột ngột, đe doạ thêm giọng gầm gừ như kiểu nó đang nhe nanh. Ở Huế ưa dùng chữ “không có răng mô” thì nên xét lại giùm cái kẻo có ngày sẽ bị chó cắn. Răng lởm chởm hai hàng, răng lại nói không có răng. Rứa lỡ hắn cắn tui thì o biết tính làm răng?
(more…)

Vương Hằng Tích
Trang Hạ chuyển dịch

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người.

Vì vậy, đàn bà trong làng thường nhổ nước bọt khi đi qua cô gái, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi “Cút cho xa!”. Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.

Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ.

Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi “đứa nối dõi” sẽ đuổi đi liền.
(more…)

Wolfgang Borchert
Lưu Thủy Hương dịch từ nguyên tác tiếng Đức Die Küchenuhr của Wolfgang Borchert


Kitchen Clock
Alexandra Ruegler

Họ để ý đến gã từ lúc gã còn ở đằng xa đi tới. Gã có bộ mặt già nua nhưng dáng đi đấy cho thấy rằng, gã chỉ mới vừa hai mươi. Ông cụ non ngồi xuống bên họ trên băng ghế. Và rồi cụ cho họ xem cái đang cầm trong tay.

Đây là cái đồng hồ nhà bếp của chúng tôi, gã nói và nhìn quanh hàng người ngồi dưới nắng. Vâng, tôi vẫn tìm ra nó. Nó còn sót lại.

Gã đưa chiếc đĩa đồng hồ trắng tròn ra phía trước và chậm ngón tay lên mấy con số sơn xanh.
(more…)

Hồ Đình Nghiêm

Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.

Gọi giờ thứ 25 là vì nó đi ra ngoài dự kiến, nó đột ngột hiện tới gây ra bao thảm cảnh nằm mộng cũng chẳng ngờ. Cái iPhone của em văng ra khỏi hiện trường đến bốn thước, va vào lề đường trầy trụa, mặt kính rạn nứt, tuy vậy cảm ứng bén nhạy có ở màn hình chưa mất đi. Một người tốt bụng đã nhặt lên, có thể bà dùng nó để thử bấm số 911 trước tiên. Đang trong sở làm, anh buộc phải ngừng tay để trả lời một cuộc gọi thất thường xuất phát từ phía em nhưng vang bên tai là một giọng nói lạ, ngập ngừng, bối rối. Anh nhìn đồng hồ, còn hơn tiếng nữa mới khép một ngày cày bừa, tuy nhiên anh đã đến gặp thằng cai: Việc bất khả kháng, tao đành phải dông thôi. Ừ, có ở lại cũng đâu còn lòng dạ mà tập trung với công việc, hy vọng bạn ấy không đến nỗi nào, chúc may mắn.
(more…)

Nguyễn Thùy Dương

Năm Vân 15 tuổi, Vân rời quê lên Thành phố học nghề. Vân nghèo, Vân khờ, Vân hiền cục mịch. Vân gặp cô Phượng. Cô Phượng ngọt như mía lùi. Cô kêu Vân về ở chung đỡ tốn tiền trọ. Vân về ở với cô như con cháu trong nhà.

Cô Phượng vốn người trong giang hồ. Vân ngày đi học may, chiều về làm việc nhà phụ cô. Cô luôn nói tốt về Vân, mở miệng là thương yêu. Đằm thắm như vậy ngót nửa năm trời. Trong xóm có chàng trai hơi xấu về ngoại hình lẫn tính cách, không ai muốn kết hôn. Gia đình khá giả và có “đạo đức” nổi tiếng khắp nơi. Cô Phượng vay tiền góp của gia đình này. Mấy tháng sau, cô Phượng đem Vân cấn nợ. Vân chưa 16, cô Phượng về quê Vân ngọt nhạt tương lai sung sướng hạnh phúc. Mẹ Vân cầm tiền gật đầu đưa đời Vân qua cổng hoa. Cô Phượng vui lắm, Vân lấy Tám. Cô sạch nợ. Chủ nợ lại cho vay thêm nữa.
(more…)

Vũ Trọng Phụng

“Chữa khoán bệnh lao, 10 ngày khỏi hẳn” – cái giòng chữ đỏ trên vải trắng này trước cửa 1 hiệu thuốc mà các ngài đã biết, chắc hẳn cho đến chết, tôi cũng không quên.

Là vì nhờ đó, tôi đã được đi 1 chầu hát che tàn ba chục bạc. Tiền chi là của thầy lang bất hủ ấy, mà người có công… chơi sỏ thầy lang, là bạn tôi, anh chàng Cờ.

Ở trọ trên gác nhà thầy lang ấy, Cờ đã vẫn phải chịu cái khổ hình hàng ngày nghe những lời khoác lác bịp khách bệnh của thầy lang. Một hôm Cò nói với anh em: Tức quá, nhà nước sao lại không đánh thuế bằng cách bán vé chợ hay treo môn bài vào mồm những thằng nói phét! Bọn mình không nên bỏ qua mối lợi ấy. Ít ra, nó cũng phải nộp thuế cho anh em chúng mình. Chúng tôi nhất loạt vỗ tay khen. Cờ, đắc chí, thêm: Hèn đến đâu nữa thì nó cũng phải nộp mình chầu hát mới được! Câu nói ba hoa trong 1 phủ hoá dại, ai dám ngờ Cờ làm thành bằng được ra sự thật mới nghe.
(more…)

Nguyễn Đại Thuật

Năm đó, khi chỉ còn hai tuần là bắt đầu vào năm học cuối của chương-trình tiểu học của tôi thì cha mẹ tôi chuyển nhà. Nhà cha mẹ tôi ở thuộc vùng Nam thành-phố Paris, nay cha mẹ tôi phải dọn nhà về vùng Bắc Paris. Lý do là nơi chỗ ở mới này, cha mẹ tôi đi làm việc gần hơn, hai nguời chỉ cần mười phút đi bộ. Ở chỗ cũ, hai người cùng đi xe hơi phải mất gần hơn hai giờ đi, về, dù cả hai cùng làm việc chung một nơi. Hôm chuyển nhà, có một công-ty chuyên về việc chuyển nhà đến làm việc, lo phần di chuyển giường, tủ, bàn ghế và những thứ cồng-kềnh khác.

Hai chị em tôi cùng cha mẹ gom-góp những vật-dụng nhẹ và đồ quý-giá cho vào những thùng giấy cứng nhỏ rồi sắp gọn vào xe hơi của gia-đình. Trước lúc khởi hành, hai chị em tôi cùng nhìn lại ngôi nhà thân-yêu, nơi hai chị em tôi đã được sinh ra và lớn lên lần cuối cùng. H ai chị em tôi bỗng nhiên oà lên khóc. Một thời của bao kỷ niệm ấu-thơ đành phải bỏ lại nơi đây.
(more…)

Nguyễn Văn Sâm

Thanh Hoa huyện nổi tiếng hai chàng Trương, Trần chăm học. Thường đóng cửa tạ khách dùi mài kinh sử đến quá nửa đêm hay tới khi trời hừng sáng. Nếu cần tham vấn bậc cao nhân điều chi về học thuật thì dù phải đứng đợi cửa ngoài tuyết rơi ngập chân vẫn chờ. Mùa Xuân năm ấy vua mở khoa thi, cả hai đều danh chiếm bảng vàng. Cờ lộng vinh qui rồi mỗi người một phương trấn nhậm ai lo việc nấy tuy vẫn giao tình bằng hữu qua thư tín.

Sau vài mươi năm cố công ích nước lợi dân, lưu phong vang lừng xa gần đều nghe biết, cả hai về trí sĩ với gia sản khiêm nhường, thậm chí còn thua xa mấy nhà phú hộ vùng quê.
(more…)

Trần Yên Hòa

May muốn gặp anh em chú bác cô dì một lần. Cũng đã hơn bốn mươi lăm năm anh em thất tán, kẻ xiêu lạc ngõ này, người xiêu lạc ngõ kia. Nghĩa là qua cuộc đổi đời. Ngày đó May còn là một cô nữ sinh mười sáu tuổi, tóc thề thả chấm ngang vai, áo dài trắng thướt tha, ôm tập vở đến trường nữ trung học. Bỗng nhiên, như cuốn phim đang chiếu trong rạp, khán giả đang xem ngon lành, hấp dẫn, bị cắt đứt. Khán giả có la ó phản đối bao nhiêu rồi cũng thôi. May nghỉ học. Và từ đó anh em thất tán nhau. Người ta thường truyền miệng, ngày ấy là “ngày đứt phim”.
(more…)

Zurab Lezhava
Phạm Đức Thân dịch bản tiếng Anh “Sex for Fridge” do Victoria Field và Natalia Bukia Peters chuyển ngữ từ nguyên tác bằng tiếng Nga của Zurab Lezhava.

Zurab Lezhava (1960 – ) là nhà văn Georgia, viết văn tiếng Nga và tiếng bản xứ. Năm 1982, ông bị tù 16 năm vì chống lại công an Soviet. Thời gian này ông viết được nửa toàn bộ tác phẩm của mình (gồm 2 truyện dài và một số truyện ngắn).

Kinh nghiệm sống, cảm nhận văn chương sắc bén, phong cách tự nhiên ông hấp dẫn độc giả bằng cái khác thường, trộn lẫn thực tế và tưởng tượng, mặt đen tối của con người (nghèo đói, vô luân, tham lam, ghen ghét, thiếu bao dung…)

TÌNH ĐỔI TỦ LẠNH

Cái tủ lạnh Apsheron cũ mèm cục mịch được gia đình để lại như một di sản cùng với chiếc ghế dựa đơn duy nhất là tất cả những gì còn lại trong bếp của Albert Karbelashvili.

Tại sao chiếc ghế? Bởi vì nó trông dị hợm nên người mua chung cả 4 ghế đã không mang nó đi. Albert bị cột chặt với cái tủ lạnh Apsheron cồng kềnh cổ lỗ cũng vì cùng một lý do – không ai mua nó. Giống như một con ác quỷ, cái tủ lạnh cũ theo anh hoài hủy. Nó đã ở trong cái apartment đầu tiên của gia đình – apartment này có 4 phòng. Cách đây lâu rồi bố mẹ Karbelashvili bán nhà và giảm xuống 3 phòng. Rồi họ dọn tới một apartment 3 phòng khác trong một khu nghèo hơn. Sau cùng bố mẹ Karbelashvili dọn xa hơn nữa, và giờ hiện đang ở một xứ hoàn toàn xa lạ không biết ở đâu. Nhưng con cái thì vẫn tiếp tục truyền thống – mua bán phòng ốc, bàn ghế giường tủ và đồ gia dụng.
(more…)

Người rơm

Posted: 15/11/2019 in Tâm Thanh, Truyện Ngắn

Tâm Thanh

Khi mùa đông buốt giá tột độ ở đây, tôi biết nơi xa xôi bên kia là mùa xuân. Người nhắc nhở tôi điều này không phải cha mẹ tôi (ông bà chết trên đường vượt biên từ Hải Phòng sang Hồng-công, lúc tôi năm tuổi), mà một cô giáo người Thụy-điển, cô Anita. Nhưng từ ngày tôi bỏ học, xa cô, tôi không biết khi nào là mùa xuân ở bên kia. Nhiều lần tôi mỏi mệt nghề ăn cắp, định về thăm cô. Nhưng năm nay lại xảy ra nhiều chuyện.

Là đứa duy nhất trong băng có quốc tịch, và có cái xe ôtô con, tôi chuyên việc cầm vôlăng trong các chuyến ăn cắp ‘butích’, được gọi nghiêm túc là ‘đi chợ. Địa bàn hoạt động của chúng tôi chủ yếu là các thành phố miền đông Thụy-điển như Stockholm, Uppsala, nhưng nếu có mối bở béo chúng tôi có thể đi sang miền tây như Gưteborg, Bohus. Được hai năm, hình như gần ba năm, cảnh sát thuộc lòng số xe của tôi và nhẵn mặt cả bọn sáu đứa, nhiều khi chúng tôi vào cây xăng mua cái xúc-xích cũng bị theo dõi. Chúng tôi phải tìm đồng cỏ bên nước láng giềng Na-uy. Sang Na-uy mới biết việc đi chợ thanh nhàn như đi ăn đám giỗ. Thằng Tư đại huynh, nói “Chẳng trách Liên Hiệp Quốc xếp đây là nước sống sướng nhất thế giới, năm năm liền.” Trong chuyến đi chợ bên Na-uy, tôi gặp Tuyết Anh.
(more…)

Lê Mai Lĩnh


Nhà văn Y Uyên – trước hầm trú ẩn ở đồn Nora, vùng núi Tà Dôn, Bình Thuận. 1969.
(Thư quán Bản thảo số tháng 2/2005)

Tác giả, đôi lời…

Ba mươi sáu năm về trước, nói rõ hơn, đúng vào ngày mồng một tháng Năm năm 1969, sau khi nhà văn Y Uyên chết, trên tạp chí VĂN của Ông Trần Phong Giao, số tưởng niệm nhà văn Y Uyên, Lê Mai Lĩnh tôi, dưới bút hiệu khai sinh Lê Văn Chính, đã có một bài viết, về cái chết của một người huynh trưởng, Y Uyên, anh khóa 27, tôi khóa 1/68, trường Bộ Binh Thủ Đức, bài này nằm giữa, trước là Võ Phiến, sau là Thanh Tâm Tuyền. Điều rất vui là tôi nằm giữa, những bậc đàn anh, bậc thầy. (Lê Mai Lĩnh, 2005)

Đêm 8.1.69

Tôi nghĩ là hắn. Đúng là hắn. Chẳng thế nào là ai khác, ngoài hắn. Tôi biết hắn đóng ở Nora. Tôi biết ngay khi đến đây, hai tháng sau ngày hắn đến. Trình diện phòng I, hỏi thăm, được biết hắn đang ở Nora, tôi thú thật: tôi thất vọng. Thất vọng vì người ta không dùng hắn như một nhà văn có tài (26 tuổi với 4 tác phẩm vững vàng, phong phú biết bao). Người ta dùng hắn như một chuẩn uý, trung đội trưởng địa phương quân. Nhớ đến thơ Luân Hoán: Tôi là một sĩ quan mù, chỉ huy một trung đội điếc… Lúc này, nếu gặp Uy, tôi ắt hỏi: mày có mù, lính có điếc? Hỡi Uy!
(more…)

Tâm Thanh

Và Diễm cảm thấy một nỗi chán nản xen lẫn hổ thẹn về người cùng màu da.

Văn phòng nằm trên bờ con sông con Askerelva chảy qua trung tâm thủ đô Oslo. Qua cửa kính ra ban-công, Diễm nhìn những cây phong lá úa vàng soi bóng trên nước, tưởng tượng nếu đây là một căn phòng trong ký túc xá sinh viên, với người yêu bên cạnh, thì thơ mộng biết bao.

Nhưng bây giờ trước mặt nàng là ông cảnh sát di trú và bên phải là một người con gái, cỡ tuổi Diễm. Cô xin tầm trú. Trước khi lên đây, một bà cảnh sát đã khám xét người và hành lý của cô. Bà muốn tìm biết cô gái thật sự là ai, tên tuổi thật là gì, nhà cửa thật ở đâu. Trong ba bốn năm gần đây, nẩy ra một hiện tượng mới là mỗi năm có vài chục người Việt Nam tới xin tầm trú tại Na-uy, không một người nào là… người thật. Báo chí Na-uy gọi họ là ingen person, tương đương với nobody, Diễm và các đồng nghiệp thông dịch viên dịch đùa từng chữ là ‘vô nhân’. Trong cái túi xách nhỏ, có hình hai bàn chân, bà cảnh sát chỉ moi ra được một cái quần tây, một áo thung, một xú-chiêng, hai xì líp, một típ kem đánh răng, một bàn chải. Chân dung thật của cô gái không nằm trong cái túi xách. Bây giờ Diễm dịch cho ông cảnh sát thẩm vấn.
(more…)

Wolfgang Borchert
Lưu Thủy Hương dịch từ nguyên tác tiếng Đức Radi của Wolfgang Borchert

Hồi đêm thằng Radi ghé chỗ tôi. Vẫn mái tóc vàng và nụ cười trên khuôn mặt nở nang mềm dịu. Cặp mắt hắn cũng như mọi khi: hơi nhút nhát và hơi thiếu tự tin. Cũng vẫn vài sợi râu vàng lún phún.

Tất cả vẫn thế.

Radi, cậu chết rồi mà, tôi nói.

Ừ, hắn trả lời, xin đừng cười.

Vì sao mình phải cười?

Các cậu luôn cười mình, mình biết đấy. Bởi vì mình có dáng đi buồn cười và dọc đường đến trường cứ ba hoa thánh tướng về bọn con gái, những đứa mà mình không hề quen. Các cậu cứ hay cười chuyện đấy. Và bởi vì mình là đứa luôn rụt rè một tí, mình biết rõ như thế.
(more…)

Arkady Averchenko (1881-1925)
Trần Quốc Việt chuyển ngữ


Arkadt Averchenko (1881-1925)

“Đàn ông tức cười thật,” bà nói rồi mỉm cười mơ màng. Không biết lời này ngụ ý khen hay chê, tôi trả lời mập mờ: “Cũng hơi đúng.”

“Đúng quá đi chứ, như chồng tôi cũng ghen tuông thường tình như ai vậy. Nhiều lúc tôi tiếc là đã lấy phải ông ấy.” Tôi bối rối nhìn bà, “Chờ bà giải thích ạ.” tôi mở đầu.

“À, tôi quên là ông đã chẳng nghe chuyện gì. Khoảng cách đây ba tuần, tôi với nhà tôi đi bộ qua quảng trường để về nhà. Tôi lúc ấy đội cái mũ đen lớn rất hợp với tôi, và má tôi ửng hồng do đi bộ. Khi chúng tôi đi qua dưới ánh đèn đường, một người đàn ông tóc đen đứng gần đấy liếc nhìn tôi và bất ngờ nắm lấy tay áo ông Alexander nhà tôi.”
(more…)

Đỗ Duy Ngọc

Hắn ở tầng bảy của một chung cư cao cấp. Từ cửa sổ phòng hắn nhìn xuống thấy một vạt cỏ xanh rì của công viên. Ngay tầm nhìn của hắn là chiếc ghế đá trắng phau. Bãi cỏ và chiếc ghế đá gợi một khung cảnh lãng mạn như một cuốn phim nào đó hắn đã từng xem. Hắn thích đứng từ trên cao nhìn xuống đó và nghĩ nhiều chuyện.

Sáng nay như lệ thường, hắn nhấm nháp ly cà phê và nhìn xuống. Vạt cỏ vẫn xanh rì và chiếc ghế vẫn trắng phau. Nhưng linh tính lại cho hắn có cảm giác sẽ xảy ra một cuộc án mạng. Sẽ có một cái chết. Ngay vạt cỏ đó. Ngay chiếc ghế đá đó. Hắn có năng khiếu của một con thú, đánh hơi được những cái chết. Hắn đã từng thoát chết nhờ cái linh tính trời ban này. Hắn là dân tình báo. Làm cái nghề mà cái chết luôn rình rập, sự may mắn và cảm giác luôn là lối thoát để có thể sống sót trước những hiểm nguy. Đã có lần hắn huỷ một chuyến bay vì đánh hơi được mùi tử khí. Chuyến bay nổ tan xác khi vừa cất cánh. Một lần khác, trong một quán ăn ở Tây Ban Nha, hắn ngửi thấy mùi chết chóc nên vội vã rời quán. Nửa tiếng đồng hồ sau, quán bị đánh bom. Ở Berlin, một lần hắn định qua đường, linh tính báo có sự nguy hiểm, hắn rẽ lối khác và đã có một vụ đụng xe với nhiều người đi bộ tử vong vì xe cháy. Linh tính là năng khiếu trời cho, cộng với những bài học về nghề ở Đông Đức, lại thêm kinh nghiệm hơn chục năm làm nghề nhiều nước trên thế giới giúp cho hắn có một bề dày đánh hơi được những bất trắc có thể xảy đến. Hắn có thể ngửi được mùi tử khí khi chưa có án mạng xảy ra. Và hôm nay hắn đã thấy điều đó. Ngay tầm nhìn của hắn từ trên cửa sổ. Sẽ có người chết hôm nay trên vạt cỏ. Có thể trên ghế đá. Hắn thấy máu chảy.
(more…)

Nguyễn Thùy Dương

Bà Câm là con một của hai vợ chồng nông dân nghèo. Từ nhỏ bà đã không nói được, chỉ ú ớ trong họng. Hai vợ chồng ông bà cũng không sanh thêm được con nữa. Khi bà câm còn nhỏ, mẹ bà chẳng may qua đời sớm. Bà Câm ở với cha.

Câm cứ vậy lớn lên như mớ cỏ ống trên đồng. Cô làm được đủ việc từ xúc cá, hái rau, nấu nướng đan lát. Năm cô Câm tới tuổi chập chững, cô không có chồng, cô có bầu rồi sanh con. Đứa con đó là con của cô và cha mình. Tôi nghe người già kể lại, đứa nhỏ đẻ ra dặt dẹo, nuôi được mấy tháng thì nó chết. Cô Câm ôm con không chịu chôn, cô rú lên từng cơn, nước mắt dàn dụa. Cô cứ vậy xiết chặt đứa con trong lòng, không cho ai ẵm đi. Cứ một lát cô giở áo cho con bú, đứa nhỏ không bú, nước mắt cô Câm chảy xuống. Qua ngày sau, cô chịu cho người ta đem đứa nhỏ đi chôn ở ngoài đồng. Cô về héo hắt như ngọn cỏ tranh bị bị cắt khỏi đất.
(more…)

Hồ Đình Nghiêm

Đạm Hạnh gửi thân vào chùa đã hơn mười mùa lũ lụt. Thập niên quét lá ngoài sân, lau chùi vệ sinh ở chánh điện, rót nước dâng hương và canh giữ thùng phước sương nghiêm ngặt, nói chung là làm việc lặt vặt, linh tinh, nhàn nhã. Đêm về, lui hậu liêu gõ mõ tụng kinh qua loa rồi lăn đùng ra chiếu ngủ say. Mười năm trời vô tư vô số tội chưa thông ngộ ra một điều gì cả, lòng hoài nghi và không hiểu cớ sao kinh sách lại có câu “Ta không vào địa ngục thì ai vào?” Thiên đường, địa ngục, ngoài kia bá tánh vẫn kêu trời. Hai cảnh giới đối cực kia sao mãi nhập nhằng, kẻ nói này người nói nọ. Ông nói “đất nước này đáng sống nhất hành tinh”. Bà la “địa ngục đấy, chết đi mày”!
(more…)

Đỗ Trường

(Có những người bạn chẳng thân cũng không sơ, lúc thì thâm sâu khó lường, khi thì mộng du, ảo tưởng nông cạn. Họ mất đi, đôi khi cũng để lại một khoảng trống trong tâm hồn. Từ đó, buộc ta phải cầm bút viết về họ, như thể khép lại một chặng đường đã qua vậy.)

Hắn mất ở một thành phố rất xa, sau một tuần tôi mới biết, từ báo chí của cộng đồng. Một cái chết không gây cho tôi sự bất ngờ. Bởi, đã bước vào cái ngưỡng gần thất thập, bị thiến mất một lá phổi, và thương tích chiến tranh vẫn còn găm đầy mình, song hắn vẫn giữ lối sống hoang phí ở cái tuổi hai mươi. Mới tháng trước, hắn về Leipzig mua xe ô tô cũ, và ở lại nhà tôi ít ngày. Dù bị tràn dịch màng phổi sau một thời gian điều trị không lâu, hắn vẫn ực bia, đốt thuốc mù nhà. Cái khoản cá cược bóng đá, hoặc ngồi bấm máy Automat hắn không thể bỏ. Tuy chỉ chơi nhỏ với khoản tiền trong túi, nhưng hắn thường ngồi thông đêm. Chẳng vậy, mấy ngày ở Leipzig, cứ hai, ba giờ sáng, nhè đúng lúc vừa qua cơn trằn trọc, tôi bắt đầu thiu thiu ngủ, hắn bấm chuông gọi mở cửa. Chịu không nổi, tôi lừ hắn: Đã quá tam ba bận rồi, lần sau ngủ ngoài đường nhé. Hắn cười rất hồn nhiên, nhảy lên giường, rồi bật bia tu ừng ực…
(more…)

Hồ Đình Nghiêm


Thiếu nữ quàng khăn
Đinh Trường Chinh

Nhà mình không nuôi chó, mình thì không giỏi đánh hơi, nhưng trưa đó, do linh tính, qua cửa sổ, mình đứng ngó, ngoài hàng rào, hình như có ai lấp ló. Trời lặng gió, sao mấy nụ hoa dâm bụt đỏ lại lay động? A, một o con gái, thậm thụt dậm cẳng kiểu tiến thoái lưỡng nan. Nắng chan chan, dâm bụt hắt màu đỏ lên mặt o, đôi mắt to, có vẻ đang lo. Mình tròng áo sơ-mi vô một nửa người đang khoả thân. Gọn bân, xong bước ra sân.

– Xin lỗi anh, có anh Cu nơi không?

– Cu chi? Nhà tui có năm cu lận. Cu Phúc, cu Lộc, cu Thọ, cu Thành, cu Đạt.
(more…)

Vũ Thư Hiên

Đây là một chương trong cuốn Miền Thơ Ấu, khi xuất bản phải bỏ vì… thiếu giấy. Tôi mới tìm lại được, bèn tạm cho nó hình thức truyện ngắn để giới thiệu với các bạn từng chia sẻ với tôi kỷ niệm về một thời đã mất. (VTH)

Cánh cổng nặng nề vừa mở hé là tôi giật bắn mình. Trong ánh rạng đông nhợt nhạt, một bóng người vụt hiện giữa bụi ruối ở bên ngõ. Cái bóng xiêu vẹo ấy chậm chạp tiến đến, lom lom nhìn tôi. Tôi lùi lại trước những ngón tay cong queo vươn tới, cùng với giọng nói khàn khàn trong gió sớm:

– Cậu Hiên ơi, cậu Hiên.

Tôi sững người: “Là ai nhỉ?”.

– Cậu không nhận ra tôi ư, cậu Hiên?

Tôi giơ tay ngăn cái bóng.

– Là tôi đây mà, là phó Tuất đây!

Tôi chú mục ngó bóng người trước mặt. Những nét sắc trên gương mặt quắt queo hiện dần trong ánh sáng mờ.
(more…)

Đào Văn Bình

Truyện này trích từ tuyển tập Mê Cung của nhà văn Đào Văn Bình. Mê Cung là một tuyển tập truyện ngắn, theo nhà xuất bản Ananda Viet Foundation, hoàn toàn hư cấu nhưng mang tính tư tưởng và triết lý. Nói “hư cấu” nhưng đều dựa vào những sự kiện có thật trong cuộc sống vì không một đạo học, tư tưởng, triết lý hay thơ, truyện nào mà không liên quan đến cuộc sống. (Việt Báo)

Kể từ khi Quan Vân Trường bị Lữ Mông chém đầu rồi đem thủ cấp dâng nạp cho Tào Tháo theo cái kế “Di họa Giang Đông” thấm thoắt đã 1800 năm. Nhờ sư cụ khuyên giải nên hiểu được lý vô thường, nhân quả của nhà Phật, nhờ lòng trung dũng, ngay thẳng, anh hùng, không đánh người ngã ngựa mà được thoát sanh về Cung Trời Đao Lợi hưởng phúc, ngày ngày đánh cờ, uống rượu, bàn luận thế sự với các vị anh hùng khác.

Tại Cung Trời Đao Lợi cứ ba trăm năm một lần, đều có vị bồ tát tên Mục Kiền Liên lên đây thuyết pháp. Đã có rất nhiều vị thượng thủ, nhân những buổi thuyết pháp này mà chứng được đại thừa, phá bỏ hồ nghi, mê chấp, yêu thích thiền định Ba-La-Mật mà thoát sanh về các cung trời cao hơn để từ đó tu chứng quả vị Bồ Tát hoặc A La Hán, Thanh Văn Duyên Giác hoặc Bích Chi Phật.
(more…)